Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Tỷ lệ bệnh đồng mắc và mối liên quan với tình trạng kiểm soát đường huyết của người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nhân dân Gia Định

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Tỷ lệ bệnh đồng mắc và mối liên quan với tình trạng kiểm soát đường huyết của người bệnh đái tháo đường tuýp 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Nhân dân Gia Định
Tác giả
Đặng Trúc Lan Trinh; Nguyễn Thị Bích Đào; Cao Mạnh Tuấn; Nguyễn Lê Anh Khang; Trần Mai Hồng Ngọc
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
293-301
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định tỷ lệ bệnh đồng mắc và mối liên quan với tình trạng kiểm soát đường huyết của người bệnh đái tháo đường típ 2 điều trị tại phòng khám Nội tiết Bệnh viện Nhân dân Gia Định. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 267 người bệnh đái tháo đường típ 2 đã được chẩn đoán, đến khám tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Nhân dân Gia Định TP. Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 12/2019 đến tháng 06/2020. Kết quả: Các bệnh đồng mắc thường gặp ở người bệnh đái tháo đường típ 2 trong dân số nghiên cứu theo thứ tự là rối loạn lipid máu (72,7%), hội chứng chuyển hóa (66,7%), tăng huyết áp (66,7%), thừa cân béo phì (55,4%), bệnh thận mạn (37,8%). Người bệnh đái tháo đường típ 2 có bệnh đồng mắc chiếm tỷ lệ cao, khoảng 96,6% người bệnh có ít nhất 1 bệnh đồng mắc. Trong đó, số NB có trên 4 bệnh đồng mắc chiếm hơn ½ dân số nghiên cứu (51,7%). Số lượng bệnh đồng mắc trung bình tăng dần theo nhóm tuổi. Sự kết hợp của các bệnh đồng mắc thường nhất là tăng huyết áp và rối loạn lipid máu (53,2%), tiếp theo là sự kết hợp của thừa cân béo phì và rối loạn lipid máu (43,1), thừa cân béo phì và tăng huyết áp (40,8%), tăng huyết áp và bệnh thận mạn (29,6%), rối loạn lipid và bệnh thận mạn (29,6%). Kết luận: Có mối tương quan yếu giữa nồng độ Triglyceride với chỉ số HbA1c, khi chỉ số Triglyceride tăng 1 đơn vị, thì chỉ số HbA1c tăng 0,16 đơn vị, với p=0,006. Có mối tương quan yếu giữa nồng độ LDL-c với chỉ số HbA1c, khi chỉ số LDL-c tăng 1 đơn vị, thì chỉ số HbA1c tăng 0,441 đơn vị, với p<0,001.

Abstract

Determining the prevalence of comorbidities and association with glycemic control in type 2 diabetes mellitus patients receiving treatments at the Endocrinology department at Nhan dan Gia Dinh Hospital. Methods: A cross-sectional study was conducted on 267 patients diagnosed with type 2 diabetes mellitus, who were admitted to the hospital from December 2019 to June 2020. Results: The most common comorbidities in patients with type 2 diabetes mellitus in the study population, in descending order, were dyslipidemia (72.7%), metabolic syndrome (66.7%), hypertension (66.7%), overweight/obesity (55.4%), and chronic kidney disease (37.8%). Patients with type 2 diabetes mellitus often had comorbidities, with approximately 96,6% of patients having at least one comorbidity. Among them, the number of patients with more than four comorbidities accounted for over half of the study population (51.7%). The average number of comorbidities increased gradually with age groups. The most common combinations of comorbidities were hypertension and dyslipidemia (53.2%), followed by overweight/obesity and dyslipidemia (43.1%), overweight/obesity and hypertension (40.8%), hypertension and chronic kidney disease (29.6%), and dyslipidemia and chronic kidney disease (29.6%). Conclusions: There was a weak correlation between Triglyceride levels and HbA1c, with a 1-unit increase in Triglyceride corresponding to a 0.16-unit increase in HbA1c (p=0.006). Similarly, there was a weak correlation between LDL-c levels and HbA1c, with a 1-unit increase in LDL-c corresponding to a 0.441-unit increase in HbA1c (p<0.001).