
Mặc dù chụp mạch vành cản quang là kỹ thuật được hấu hết các bác sĩ tim mạch can thiệp sử dụng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của tổn thưong mạch vành và hướng dẫn điều trị, nhưng chụp động mạch vành có một số hạn chế nhất định như kết quả thể hiện là hình chiếu phẳng của lòng mạch nên hình ảnh có thể bị thu ngắn lại, không mô tả được tính chất mảng xơ vữa hoặc gánh nặng xơ vữa, các đặc điểm của cấu trúc thành mạch. Xuất phát từ thực tế đó, các công nghệ hình ảnh nội mạch ra đời bao gồm siêu âm trong lòng mạch (IVUS), chụp cắt lớp quang học (OCT) và quang phổ cận hống ngoại (NIRS). Các kỹ thuật này cung cấp hình ảnh chụp cắt ngang động mạch vành bao gồm lòng mạch, thành mạch, gánh nặng mảng xơ vữa, thành phần và phân bố mảng bám, và thậm chí cả cấu trúc quanh mạch máu - thông tin hứa hẹn nhưng hiếm khi được cung cấp qua chụp mạch cản quang. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh trong lòng mạch (IVI) có thể được sử dụng để trả lời các câu hỏi xảy ra trong quá trình thực hành hàng ngày cũng nhưtheodõi kết quả của bệnh nhân như: Mức độ hẹp này có nghiêm trọng không? Thủ phạm gây tổn thưong ở đâu? Kích thước và chiểu dài stent phù họp là bao nhiêu? Khả năng thuyên tắc phấn xa hoặc nhồi máu cotim quanh thủ thuật trong quá trình đặt stent là gì? Sự can thiệp đã được tối Ưu hóa chưa? Tại sao stent này bị huyết khối hoặc tái hẹp? Bài viết này tóm tắt những ứng dụng của kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh trong lòng mạch trong quá khứ cho đến hiện tại cũng như dữ liệu vể việc kết họp chúng vào thực hành lâm sàng thông thường và hướng đi trong tưong lai.
Although angiography is the technique most interventional cardiologists use to assess the severity of coronary artery disease and guide treatment, conventional angiography has some limitations such as providing a 2D silhouette of the arterial lumen so images may be foreshortened, not depicting plaque characteristics or burden, features of arterial wall structure. With those realities in mind, intravascular imaging modalities emerged including intravascular ultrasound (IVUS), optical coherence tomography (OCT), and near-infrared spectroscopy (NIRS). These techniques provide cross-sectional images of the coronary artery including lumen, wall, plaque burden, plaque composition and distribution, and even structures around the vessel - information that is promised but rarely delivered by angiography. Intravascular imaging (IVI) can be used to answer questions that arise in daily practice as well as follow-up results such as: How severe is this stenosis? What is the culprit lesion? What is the appropriate stent size and length? What is the risk of distal embolization or peri-procedural Ml during stenting? Has the intervention been optimized? Why did this stent thrombose or restenose? This article summarizes the applications of intravascular imaging techniques from the past to present as well as data on incorporating them into routine clinical practice and future directions.
- Đăng nhập để gửi ý kiến