
Bản lề cổ chẩm là vùng nối tiếp xương sọ với cột sống cổ cao C1C2. Đây là vùng có cấu trúc giải phẫu đặc biệt, ảnh hưởng nhiều đến tầm vận động của cột sống cổ. Cố định vùng chẩm cổ đã trải qua quá trình phát triển đáng kể do những tiến bộ trong kỹ thuật phẫu thuật và trang thiết bị. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này để đánh giá hiệu quả phẫu thuật của phương pháp cố định bản lề cổ chẩm bằng nẹp vít trong mất vững bản lề cổ chẩm. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên bệnh nhân được cố định bản lề cổ chẩm bằng nẹp vít. Kết quả: Trong thời gian 6 năm (2014-2020) khoa PTCS Bv VĐ tiến hành phẫu thuật 17 trường hợp mất vững vùng cổ chẩm, bao gồm 15 nam, 2 nữ. Tuổi trung bình 43,41 (21 ÷ 67 tuổi), trong đó chấn thương 15 bệnh nhân, bệnh lý 2 bệnh nhân. Triệu chứng lâm sàng biểu hiện khi nhập viện chủ yếu là hội chứng chèn ép tủy sống (41.2%), liệt tiến triển tăng dần (66.6%). Tất cả bệnh nhân đều không có tổn thương thêm thần kinh và mạch máu sau mổ, triệu chứng thần kinh được cải thiện. Kết luận: Đây là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị mất vững vùng bản lề cổ chẩm.
Occipitocervical is the joint area between cranial bones with high neck spine C1C2. The occipitocervical junction presents a unique, complex, biomechanical interface between the cranium and the upper cervical spine. This is a region which has large influence on the activity level of the neck spine. Occipitocervical fixation has undergone significant evolution due to advances in operative techniques and instrumentation techniques. We conducted research on this topic to evaluate the effectiveness of fixing occipitocervical with surgery in treatment of occipitocervical instability. Material and methods: Research carried out on patients whose occipitocervical instability is fixed by splints. Results: During the six years (2014-2020), The Spinal Surgery Department of Viet Duc hospital has conducted 17 surgeries on 15 males and 2 females including 15 trauma patients and 2 phatholody ones, average age of whom is 43.41 (from 21 to 67 years old). As regards the clinical presentation, all patients had presented with neck pain before surgery, 8 patients (41.2%) with myelopathy, and 10 patients (66.6%) had presented with a neurological deficit either motor or sensory or both. All patients showed no neurogenous and blood vessels ịnury after surgery, neurological symptoms were improved. Conclusion: This is a reliable and effective method in treatment of occipitocervical instability.
- Đăng nhập để gửi ý kiến