
Phân tích một số yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ ở sản phụ đến sanh tại Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Kiên Giang từ tháng 3 năm 2024 đến tháng 6 năm 2024. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng trên 68 sản phụ, trong đó có nhóm sản phụ khỏe mạnh (n = 35) và sản phụ mắc đái tháo đường thai kỳ (n = 33) được chẩn đoán theo ADA 2023. Kết quả: Nghiên cứu ghi nhận các đặc điểm ở nhóm sản phụ mắc đái tháo đường thai kỳ cao hơn so với nhóm sản phụ khỏe mạnh gồm độ tuổi trung bình (34,8 ± 6,3 vs. 28,6 ± 6,5), cân nặng (71,4 ± 10,4 vs. 60,9 ± 8,8), đường huyết lúc đói (7,5 ± 3,4 vs. 4,7 ± 0,8), tiền sử mắc đái tháo đường thai kỳ (45,5% vs. 5,7%), thai chết lưu (39,4% vs. 11,4%), sinh con ≥ 4000g (39,4% vs. 5,7%) và tiền căn gia đình mắc đái tháo đường (42,4% vs. 17,1%) với sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Phân tích hồi quy logistic đơn biến cho biết nhóm có tiền sử mắc đái tháo đường thai kỳ làm tăng nguy cơ ĐTĐTK lần mang thai này với OR=7,1 (KTC 95%: 1,3 – 39,0) (p=0,03). Tiền sử sanh con ≥ 4000g cũng là yếu tố tăng nguy cơ mắc ĐTĐTK với OR=6,3 (KTC 95%: 1,1 – 36,3) (p=0,04). Khi phân tích hồi quy logistic đa biến, chúng tôi ghi nhận tiền sử mắc đái tháo đường thai kỳ (OR=13,8 với KTC 95%: 2,8 – 13,8), tiền sử thai chết lưu (OR=5,0 với KTC 95%: 1,4 – 17,7) và tiền sử sinh con ≥ 4000g (OR=10,7 với KTC 95%: 2,2 – 52,5) là các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lần mang thai này có ý nghĩa thống kê trong phân tích hồi quy logistic đa biến (p<0,05). Kết luận: Tiền sử mắc đái tháo đường thai kỳ, tiền sử thai chết lưu và tiền sử sinh con ≥ 4000g là các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường thai kỳ lần mang thai này. Qua đó nhấn mạnh sự cần thiết của sàng lọc những phụ nữ mang thai có những yếu tố nguy cơ này.
To analyze several risk factors for gestational diabetes mellitus among pregnant women delivering at Kien Giang Hospital of Obstetrics and Pediatrics from March 2024 to June 2024. Materials and methods: A prospective cohort study was conducted on 68 eligible pregnant women, including a group of healthy pregnant women (n = 35) and a group of pregnant women diagnosed with gestational diabetes mellitus (n = 33) according to the ADA 2023 criteria. Results: The study recorded the following characteristics in the GDM group compared to the healthy pregnant group: average age (34,8 ± 6,3 vs. 28,6 ± 6,5), weight (71,4 ± 10,4 vs. 60,9 ± 8,8), fasting blood glucose (7,5 ± 3,4 vs. 4,7 ± 0,8), history of GDM (45,5% vs. 5,7%), history of stillbirth (39,4% vs. 11,4%), delivering a baby ≥ 4000g (39,4% vs. 5,7%), and family history of diabetes (42,4% vs. 17,1%), with statistically significant differences between the two groups (p<0,05). Univariate regression analysis indicated that a history of GDM increases the risk of developing GDM in this with OR=7,1 (95% CI: 1,3 – 39,0) (p=0,03). A history of delivering a baby ≥ 4000g also increased the risk of GDM in the subsequent pregnancy with OR=6,3 (95% CI 1,1 – 36,3) (p=0,04). Multivariate regression analysis showed that a history of GDM (OR=13,8, 95% CI 2,8 – 13,8), history of stillbirth (OR=5,0, 95% CI 1,4 – 17,7), and history of delivering a baby ≥ 4000g (OR=10,7, 95% CI 2,2 – 52,5) were statistically significant risk factors for developing GDM in this pregnancy (p<0,05). Conclusion: A history of gestational diabetes mellitus, history of stillbirth, and history of delivering a baby ≥ 4000g are significant risk factors for developing gestational diabetes mellitus in the current pregnancy. This underscores the necessity of screening pregnant women with these risk factors.
- Đăng nhập để gửi ý kiến