Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu in vitro: môi trường lưu trữ tối ưu của răng sau khi rời khỏi xương ổ răng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu in vitro: môi trường lưu trữ tối ưu của răng sau khi rời khỏi xương ổ răng
Tác giả
Phan Anh Chi, Tô Thanh Tín
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
03
Trang bắt đầu
164-169
ISSN
1859-3836
Tóm tắt

Răng rời khỏi xương ổ có thể cắm lại nếu được bảo quản thích hợp. Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá tỷ lệ sống sót của tế bào dây chằng nha chu trong các môi trường lưu trữ ở các thời điểm khác nhau sau khi răng rời khỏi xương ổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 46 răng răng cối nhỏ và răng cối lớn thứ ba được chia vào 4 môi trường lưu trữ (DMEM, sữa, nước muối sinh lý, nước uống bù điện giải) và ngẫu nhiên trong 4 khoảng thời gian (30 phút, 1 giờ, 2 giờ, 24 giờ). Bề mặt chân răng được cạo để thu thập tế bào dây chằng nha chu. Các tế bào được nhuộm bằng dung dịch Trypan blue 0,4% và quan sát trên kính hiển vi đảo ngược qua buồng đếm Neubauer. So sánh tỷ lệ phần trăm tế bào sống sót giữa các nhóm nghiên cứu sử dụng phép thử Kruskal - Wallis và bổ sung phép thử Scheffé (α = 5%). Kết quả: Ở thời điểm 30 phút, cả 4 môi trường đều cho tỷ lệ tế bào sống sót cao (trên 95%) (p > 0,05). Ở thời điểm 1 giờ, tỷ lệ sống sót của tế bào ở DMEM, sữa, nước uống bù điện giải cao hơn nước muối sinh lý (p < 0,05) trong khi ở thời điểm 2 giờ và 24 giờ, DMEM và sữa có tỷ lệ tế bào sống cao hơn (p < 0,05). Kết luận: Sữa là môi trường lưu trữ thuận lợi cho khả năng sống sót của tế bào dây chằng nha chu, nước uống bù điện giải cho thấy hoàn toàn có thể thay thế sữa khi thời gian lưu trữ không quá 1 giờ.

Abstract

Tooth avulsion can be replanted to the alveolar bone if appropriate preserved. This study aimed to evaluate the viability of periodontal ligament cells in several storage media at different time after the tooth leaves the alveolar bone. Method: 46 teeth premolars and third molars were divided into 4 storage media (DMEM, milk, physiologic saline, sports drink) and randomly for 4 period (30 minutes, 1 hour, 2 hours, 24 hours). The root surface was scraped to collect periodontal ligament cells. Cells were stained with 0.4% Trypan blue solution and observed by a Neubauer chamber under inverted microscope. Comparison of the percentage of cells viability between the study groups using the Kruskal-Wallis test, complemented by the Scheffé test (α = 5%). Results: At 30 min, all 4 media gave high cell survival rate (over 95%) (p > 0.05). At 1 hour, the cell survival rate in DMEM, milk, and sports drink was higher than physiologic saline (p < 0.05) while at 2 hours and 24 hours, DMEM and milk have a higher percentage of viable cells (p < 0.05). Conclusion: Milk is a favorable storage medium for the viability of periodontal ligament cells, sports drink shows that it can completely replace milk when the tooth storage time is not more than 1 hour.