Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nhận xét hình ảnh tổn thương trên phim cắt lớp vi tính lồng ngực các tổn thương dạng u đơn độc ngoại vi phổi

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nhận xét hình ảnh tổn thương trên phim cắt lớp vi tính lồng ngực các tổn thương dạng u đơn độc ngoại vi phổi
Tác giả
Vũ Anh Hải; Lê Việt Anh
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
34-37
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nhận xét cơ cấu bệnh lý phổi có tổn thương dạng u đơn độc ngoại vi và giá trị của một số hình ảnh cắt lớp vi tính lồng ngực trong tiên lượng nguy cơ ung thư phổi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên 116 bệnh nhân có tổn thương dạng u đơn độc ở ngoại vi phổi được Phẫu thuật nội soi chẩn đoán và điều trị, tại Khoa Ngoại lồng ngực - Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch, thời gian từ 11/2011 đến 7/2014. Kết quả: Tuổi trung bình là 57,1 ± 12,3, tỷ lệ Nam/nữ là 1,3/1. Phân bố bệnh nhân theo kết quả mô bệnh học gồm: UTP chiếm tỷ lệ 41,4 %, trong đó UTBM tuyến chiếm chủ yếu (97,9%); u lành tính chiếm 58,6%, trong đó: u lao và viêm phổi mạn tính tổ chức hóa chiếm chủ yếu (69,4% và 23,6%). Phân tích mối liên quan giữa một số đặc điểm trên phim CLVT lồng ngực với kết quả mô bệnh cho thấy: tổn thương ở thùy giữa phổi phải; bờ đa cung, có tua gai có tỷ lệ UTP cao hơn lành tính (p < 0,01), trong khi tổn thương có kích thước từ 2cm trở xuống, bờ rõ nhẵn có tỷ lệ lành tính cao hơn UTP (p < 0,005); tỷ lệ UTP tăng dần theo kích thước tổn thương. Kết luận: Tổn thương dạng u đơn độc, ngoại vi phổi thường có bản chất mô học là ung thư phổi típ biểu mô tuyến (tỷ lệ 40,5%) hoặc lao (43,1%). Vị trí, kích thước và đặc điểm bờ khối u trên phim chụp CLVT lồng ngực có giá trị tiên đoán nguy cơ UTP.

Abstract

Comment on the histological distribution and the value of some c-haracterisrics on chest computed tomography in predicting the risk of lung cancer. Subjects and methods: Descriptive and prospective study on 116 patients with peripheral solitary tumor-like lesions who were diagnosed and treated by Video-assisted-thoracoscopic surgery at the Department of Thoracic Surgery - Pham Ngoc Thach Hospital, f-rom 11/2011 to July 2014. Results: The mean age was 57.1 ± 12.3, the male/female ratio was 1.3/1. Distribution of patients according to histopathological results include: cancer accounted for 41.4%, of which adenocarcinoma accounted for mainly (97.9%); Benign tumors accounted for 58.6%, of which: tuberculosis and chronic pneumonia accounted for mainly (69.4% and 23.6%). Analysis of the relationship between some features on chest CT with histopathology showed: lesions in the middle lobe of the right lung, lobulated margin or irregular with many spiculation, has a higher rate of lung cancer (p < 0.01), while lesions of 2cm or less in size, sharp and smooth margins have a higher rate of benign tumors (p < 0.005); The rate of lung cancer increased escallatelly with the lesion size. Conclusion: Peripheral solitary tumor-like lesions often have histological of adenocarcinoma lung cancer (rate 40.5%) or tuberculosis (rate 43.1%). The location, size and c-haracteristics of the tumor margin on the chest CT scan have good value in predicting the risk of lung cancer.