
Đánh giá hiệu quả và tác dụng phụ của Tolvaptan trên bệnh nhân hạ Na máu nặng cấp đẳng tích hoặc thừa thể tích. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên.Đối tượng là 42 bệnh nhân (BN) hạ Na máu nặng cấp đẳng tích hoặc thừa thể tích, chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: 20 BN điều trị theo phương pháp kinh điển và 22 BN điều trị bằng Tolvaptan có thể thêm NaCl 0,9%. Chẩn đoán hạ Na máu nặng đẳng tích hoặc thừa thể tích theo tiêu chuẩn BYT VN. Phương pháp điều trị hạ Na máu kinh điển theo hướng dẫn của BYT VN. Phương pháp sử dụng Tolvaptan trong điều trị hạ Na máu dựa theo các khuyến cáo của Hoa Kỳ. Kết quả: Nhóm điều trị kinh điển phải áp dụng nhiều biện pháp để điều trị, gồm: Hạn chế tối đa lượng nước uống vào; lượng NaCl 0,9% (chai 500ml) CTM trung bình là 6,60 ± 1,5; Trung vị lượng NaCl 3% (chai 100ml) CTM và Furosemide (ống 20mg) là 6,00 (5,00 – 7,00) và 1,00 (0,00 – 2,00) trong khi nhóm sử dụng Tolvaptan thì không cần hạn chế uống, không sử dụng NaCl 3%, không sử dụng Furosemid. Lượng NaCl 0,9% (chai 500ml) CTM trung bình sử dụng ở nhóm Tolvaptan là 2,45 ± 1,34 ít hơn so với nhóm kinh điển (6,60 ± 1,5); p < 0,001. Thời gian (h) điều trị đạt mục tiêu Na máu của cả 2 nhóm đều lớn hơn thời gian kỳ vọng: Trung vị ở nhóm điều trị kinh điển là 36,00 (24,00 - 46,00) so với 22,00 (18,50 – 33,50), p = 0,001; Trung vị ở nhóm có Tolvaptan là 24,00 (23,50 - 35,00) so với 22,00 (20,00 – 35,00), p = 0,016. Trong đó thời gian điều trị thực của nhóm có Tolvaptan thấp hơn nhóm điều trị kinh điển (p = 0,027). Trung vị thời gian cải thiện dấu hiệu nôn ói và cải thiện dấu hiệu mệt mỏi là 03h và 12h ở nhóm có Tolvaptan, thấp hơn ở nhóm điều trị kinh điển (06h và 22h), p = 0,002 và 0,001. Về tác dụng phụ của điều trị: Phù và hạ Kali máu chỉ gặp ở nhóm điều trị kinh điển với tỷ lệ 20% và 55%, ngược lại nhóm có Tolvaptan không có BN nào bị phù hoặc hạ Kali máu trong khi có đến 81,8% BN tiểu nhiều, (p = 0,003 và p < 0,001), cả hai nhóm không có BN nào bị tăng Na máu theo thời gian vượt quá kỳ vọng gây nguy cơ hủy Myelin. Liều Tolvaptan chủ yếu là 7,5mg và 11,25mg (chiếm tỷ lệ 45,5% và 36,4%), 13,6% dùng liều 15mg và chỉ 4,5% dùng liều 18,75mg. Lưu lượng nước tiểu (ml/h) trung bình của nhóm Tolvaptan tại các thời điểm 03h; 06h; 12h và 24h lần lượt là: 205,00 ± 61,00; 225,45 ± 52,44; 195,91 ± 48,17 và 167,27 ± 41,19. Mức tăng Na máu (mmol/L) trung bình của nhóm Tolvaptan tại các thời điểm 03h; 06h; 12h và 24h lần lượt là 2,32 ± 0,78; 4,50 ± 0,67; 8,18 ± 1,44 và 13,68 ± 1,62.
Evaluating the effectiveness and side effects of Tolvaptan in the patients with severe acute euvolemic and hypervolemic hyponatremia. Methodology: Randomized controlled trial in 42 patients with severe acute euvolemic or hypervolemic hyponatremia, randomly. These patients are divided into 2 groups: 20 patients following classic treatment and 22 patients managed by Tolvaptan with or without NaCl 0.9 %. Results: The classic treatment group required many managements, including maximum water restriction, average amount of NaCl 0.9% perfusion (500ml bottle) was 6.60 ± 1.5; medians of 3% NaCl perfusion (100ml bottle) and Furosemide (20mg ampoule) were 6.00 (5.00 – 7.00) and 1.00 (0.00 – 2.00) respectively, while the Tolvaptan group needed neither water restriction nor 3% NaCl nor Furosemide. The average amount of NaCl 0.9% (500ml bottle) used in the Tolvaptan group was 2.45 ± 1.34 less than in the classic group (6.60 ± 1.5), p < 0.001. The length (hour) of treatment to achieve the serum sodium target in both groups was greater than the expected duration: the median in the classical treatment group was 36.00 (24.00 - 46.00) compared with 22.00 (18.50 – 33.50), p = 0.001; The median treatment duration in the Tolvaptan group was 24.00 (23.50 - 35.00) vs 22.00 (20.00 - 35.00), p = 0.016. The real treatment duration of the Tolvaptan group was lower than that of the classic treatment group (p = 0.027). The median time needed to improve the symptoms of vomiting and fatigue was 03 h and 12 h in the Tolvaptan group, lower than in the classic treatment group (06 h and 22 h), p = 0.002 and 0.001, respectively. As regards the side effects of treatment: Edema and hypokalemia were only seen in the classical treatment group with the rate of 20% and 55%, in contrast, Tolvaptan group did not develop the edema or hypokalemia, whereas 81.8% of patients of this group had polyuria, (p = 0.003 and p < 0.001). During the study, there were no patients with hypernatremia that exceeded the threshold evoking the risk of demyelination. The main dose of Tolvaptan was 7.5mg and 11.25mg (accounting for 45.5% and 36.4%), 13.6% used the 15mg dose and only 4.5% used the 18.75mg dose. Average urine flow (ml/h) of Tolvaptan group at the time of 03h; 06h; 12h and 24h was: 205.00 ± 61.00; 225.45 ± 52.44; 195.91 ± 48.17 and 167.27 ± 41.19, respectively. The average increase in serum sodium (mmol/L) of Tolvaptan group at the time of 03h; 06h; 12h and 24h was respectively 2.32 ± 0.78; 4.50 ± 0.67; 8.18 ± 1.44 and 13.68 ± 1.62. Conclusion: Using of Tolvaptan in management of severe acute euvolemic or hypervolemic hyponatremia is simpler and easier to be tolerated than that of classic method (without water restriction, hypertonic NaCl or furosemide). The initial dose of 7.5 mg Tolvaptan, which is titrated by a small dose of 3.75mg each 03 hours to a maximum of 18.75 mg, has shown to be safe and effective.
- Đăng nhập để gửi ý kiến