Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm bệnh nhân viêm cột sống dính khớp điều trị nội trú tại trung tâm cơ xương khớp Bệnh viện Bạch Mai năm 2021

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm bệnh nhân viêm cột sống dính khớp điều trị nội trú tại trung tâm cơ xương khớp Bệnh viện Bạch Mai năm 2021
Tác giả
Bùi Hải Bình; Phạm Kim Linh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
5-9
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nhận xét một số đặc điểm về chẩn đoán và điều trị bệnh nhân viêm cột sống dính khớp tại trung tâm Cơ Xương Khớp- bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang trên 633 hồ sơ bệnh án (lượt điều trị) của 218 bệnh nhân viêm cột sống dính khớp trong thời gian từ tháng 01 năm 2021 đến tháng 12 năm 2021. Kết quả: trong 218 bệnh nhân viêm cột sống dính khớp, tỉ lệ nam/nữ là 4,9/1; tuổi trung bình 28,8  10,8; thời gian mắc bệnh trung bình 4,0  4,4 năm. Tỉ lệ bệnh nhân viêm cột sống dính khớp thể hỗn hợp chiếm 77,6% so với thể cột sống 19,7% và thể ngoại vi 2,7%. Trung bình mỗi bệnh nhân nhập viện 2,9 lượt trong năm 2021 trong đó tỉ lệ bệnh nhân có số lần điều trị trên 5 lần chỉ chiếm 10,1%. Trong 218 bệnh nhân, có 173 (79,4%) bệnh nhân được điều trị thuốc sinh học, trong đó nhóm thuốc ức chế TNF alpha (adalimumab, infliximab, golimumab) có tỉ lệ 59,6%, còn lại là nhóm ức chế interleukin 17A (secukinumab) (40,4%). Kết luận: viêm cột sống dính khớp chủ yếu gặp ở nhóm đối tượng nam trẻ tuổi, thể bệnh thường gặp là thể hỗn hợp. Số lần nhập viện điều trị trong năm thấp, tỉ lệ được điều trị thuốc sinh học cao, trong đó chủ yếu được điều trị nhóm thuốc kháng TNF alpha.

Abstract

To describe the diagnosis and treatment characteristics of patients with ankylosing spondylitis (AS) at the Centre for Rheumatology of Bach Mai Hospital. Subjects and methods: This was a retrospective cross-sectional study that reviewed 218 patients with AS including 633 medical records (courses of treatment) from January 2021 to December 2021. Results: A total of 218 patients were included with a male predisposition (male-to-female ratio 4.9/1); the mean age was 28.8  10.8 years; the mean disease duration was 4.0  4.4 years. Both axial and peripheral AS manifestations were noted in 77.6% of patients, while solely axial or peripheral manifestations group accounted for 19.7% and 2.7% respectively. On average, each patient has 2.9 courses of treatment in 2021, of which the proportion of patients with more than 5 courses per year for only 10.1%. Among 218 patients, a total 173 patients of administered biological DMARDs (79.4%) were observed, including anti- TNF group (adalimumab, infliximab, golimumab) (59.6%) vs the anti-interleukin IL-17A group (secukinumab) (40.4%). Conclusion: Ankylosing spondylitis was more prevalent in young males, and the most common type was the combined axial and peripheral AS. The courses of treatment per year were low, and the proportion of patients treated with biological DMARDs accounts for the higher percentage, especially anti-TNF drugs.