Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm chiều cao ở trẻ hội chứng thận hư tại Bệnh viện Nhi Đồng 1

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm chiều cao ở trẻ hội chứng thận hư tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả
Phạm Quốc Cường; Lê Phạm Thu Hà
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
274-279
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Hội chứng thận hư (HCTH) là bệnh lý cầu thận thường gặp nhất ở trẻ em. Việc điều trị Steroid kéo dài có thể dẫn đến các tác dụng phụ nghiêm trọng, trong đó quan trọng nhất là vấn đề thấp còi. Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá đặc điểm chiều cao ở trẻ HCTH. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả 126 trường hợp HCTH trên 2 tuổi tại bệnh viện Nhi Đồng 1 từ tháng 11/2022 đến tháng 06/2023. Tiêu chuẩn chẩn đoán HCTH bao gồm: đạm niệu 24 giờ > 50mg/kg hoặc tỉ số protein/creatinin niệu > 200 mg/mmol. Tiêu chí loại ra gồm: (1) trẻ có các bệnh lý cầu thận khác ngoài HCTH như bệnh thận IgA, Lupus đỏ hệ thống, viêm cầu thận do nguyên nhân nhiễm trùng hoặc tự miễn; (2) trẻ mắc các bệnh lý ảnh hưởng đến chiều cao như suy giáp, dậy thì sớm, suy dinh dưỡng, Thalassemia… Trẻ sẽ được đo chiều cao đứng. Trẻ được hướng dẫn bỏ giày khi thực hiện đo. Đảm bảo tư thế đúng với 5 điểm chạm vào thước đo (gáy, xương vai, mông, bắp chân, gót chân). Độ chính xác của chiều cao được đo chính xác đến 0,1 cm. Kết quả: Trong 126 trẻ có 23 trường hợp mới chẩn đoán lần đầu và 103 trường hợp đang điều trị; có 93 trẻ nam và 33 trẻ nữ, tỉ lệ nam/nữ là 2,8/1; tuổi khởi phát bệnh trung bình là 5,8 ± 3,9 tuổi; có 70 trường hợp được sinh thiết thận với 49 trường hợp MCD (70,0%) và 21 trường hợp FSGS (30,0%). Ở nhóm trẻ đang điều trị, thời gian dùng Steroid trung bình là 4,3 ± 4,0 năm; có 35 trẻ nhạy Steroid (34,0%), 60 trẻ kháng Steroid (58,2%) và 8 trẻ kháng Calcineurin (CsA) (7,8%); có 48 trường hợp lui bệnh (46,6%) và 55 trường hợp không lui bệnh (53,4%). Trong nhóm nghiên cứu có 39 trẻ thấp còi (31%); thời gian dùng Steroid trung bình ở nhóm thấp còi là 5,6 ± 4,0 năm cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 3,7 ± 3,8 năm ở nhóm có chiều cao bình thường (P = 0,02); những trẻ dùng Steroid trên 1 năm có tỉ lệ thấp còi là 36,9%, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với 19,0% ở nhóm dùng Steroid dưới 1 năm (P = 0,04); chúng tôi cũng ghi nhận tỉ lệ trẻ thấp còi cao hơn ở nhóm trẻ mắc hội chứng Cushing so với nhóm trẻ không mắc hội chứng này (40,7% so với 22,7%, P = 0,04) và tỉ lệ trẻ thấp còi cao hơn ở nhóm có sang thương giải phẫu bệnh là FSGS so với nhóm MCD (61,9% so với 28,6%, P = 0,02). Kết luận: Tỉ lệ thấp còi trong nhóm nghiên cứu là 31,0%. Các yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng ảnh hưởng đến tình trạng thấp còi ở trẻ HCTH là: thời gian dùng Steroid, biểu hiện hội chứng Cushing và loại sang thương giải phẫu bệnh.

Abstract

Nephrotic syndrome (NS) is the most common glomerular disease in children. Long – term Steroid treatment can lead to serious side effects, the most important of which is stunting. In Viet Nam, there have been no study evaluating about characteristics of height in children with NS. Method: We performed a cross – sectional study of 126 children with NS at Children Hospital 1 from November 2022 to June 2023. Diagnotic criteria include 24-hour proteinuria > 50 mg/kg or uPCR > 200 mg/mmol. Elimination criteria include: (1) children with additional glomerular disease such as IgA nephropathy, SLE, glomerulonephritis due to infection or autoimmune; (2) children with conditions that affect height such as hypothyroidism, early puberty, malnutrition, Thalassemia… Children will have their standing height measured. They are instructed to take off their shoes before taking measurements. Ensure correct posture with 5 points touching the ruler (nape, shoulder blades, buttocks, calves, heels). The accuracy of measured height is up to 0,1 cm. Results: In 126 children, there were 23 newly diagnosed cases and 103 cases under treatment; there were 93 male and 33 female, the male/female ratio was 2,8/1; mean age at first diagnosis was 5,8 ± 3,9 years old; there were 70 cases that get kidney biopsy with 49 MCD (70,0%) and 21 FSGS (30,0%). In the children who were under treatment, the average time of using Steroid was 4,3 ± 4,0 years; there were 35 Steroid – sensitive cases (34,0%), 60 Steroid – resistant cases (58,2%) and 8 Calcineurin (CsA) – resistant cases (7,8%); there were 48 remission cases (46,6%) and 55 cases of no remission (53,4%). In the research group, there were 39 cases of stunting (31%); average duration of Steroid use in the stunted group was 5,6 ± 4,0 years, significantly higher than 3,7 ± 3,8 years in the normal height group (P = 0,02); stunting rate of children who used Steroid over 1 year was 36,9% significantly higher than 19,0% in children who used Steroid less than 1 year (P = 0,04); we also note that stunting rate was higher in children who have Cushing syndrome than in children who doesn’t (40,7% compared to 22,7%, P = 0,04) and stunting rate in children with pathology result of FSGS was higher than those with MCD (61,9% compared to 28,6%, P = 0,02). Conclusion: Stunting rate in the study group was 31,0%. Clinical and sub-clinical factors that affect stunting condition in children with NS are duration of Steroid use, Cushing syndrome and pathology result on kidney biopsy.