Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy vách ngăn chính xoang bướm và vai trò trong tiếp cận hố yên qua đường xuyên xoang bướm

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính đa dãy vách ngăn chính xoang bướm và vai trò trong tiếp cận hố yên qua đường xuyên xoang bướm
Tác giả
Hoàng Đình Âu, Mã Mai Hiền
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
37-41
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Có rất nhiều biến thể giải phẫu của xoang bướm như khí hóa xoang bướm, tế bào bướm sàng sau (Onodi cell), vách ngăn xoang bướm và mối liên quan đến các cấu trúc mạch máu thần kinh. Nghiên cứu này của chúng tôi nhằm mục đích đánh giá chiều cao của vách ngăn chính xoang bướm, cũng như loại của nó (xương, màng hoặc hỗn hợp) và tần suất gặp ở nhóm bệnh nhân trước phẫu thuật nội soi chức năng xoang tại Bệnh viện Đại học Y Hà nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang phân tích vách ngăn chính xoang bướm trên 149 bệnh nhân (75 nữ, 74 nam) trước PTNS chức năng xoang, được chụp MSCT xoang không tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch nhằm đo chiều cao vách ngăn chính của xoang bướm và loại vách ngăn chính. Quy trình chụp MSCT từ xoang trán đến hết xoang bướm với các lớp mỏng 0.625mm, tái tạo theo mặt phẳng coronal vuông góc với khẩu cái cứng và axial song song với khẩu cái cứng. Chiều cao vách ngăn chính được đo trên mặt phẳng coronal từ thành dưới đến thành trên, đo theo đường thẳng (nếu vách ngăn chính thẳng) hoặc cong (nếu vách ngăn chính không đều). Vách ngăn chính xoang bướm được chia làm 3 loại: xương hoàn toàn, bán phần xương- màng và màng hoàn toàn. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 46.6±15, tuổi thấp nhất là 8, cao nhất là 77. Chiều cao trung bình của vách ngăn chính xoang bướm là 19.7±6.4 mm, thấp nhất là 7 mm, cao nhất là 33 mm. Trong số 149 bệnh nhân, có 67 BN (chiếm 45 %) vách ngăn chính thuộc loại xương hoàn toàn. Có 77 BN (chiếm 51%) vách ngăn chính loại hỗn hợp (bán xương-màng). Chỉ có 6 BN (chiếm 4%) vách ngăn chính xoang bướm là loại màng hoàn toàn. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều cao vách ngăn chính xoang bướm loại màng hoàn toàn với loại xương hoặc loại bán màng. Tuy nhiên có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0.026) về chiều cao giữa vách ngăn chính xoang bướm loại xương hoàn toàn với loại bán màng. Kết luận: Vách ngăn chính xoang bướm cần phải được đánh giá đầy đủ trên MSCT xoang trước phẫu thuật xuyên xoang bướm tiếp cận hố yên để tránh các biến chứng tiềm ẩn do các thay đổi về mặt giải phẫu này.

Abstract

There were many anatomical variations of the sphenoidal sinus such as sphenoid sinus pneumatization, posterior ethmoid sphenoid cells (Onodi cells), sphenoidal septum and its involvement of neurovascular structures. This study aimed to evaluate the height of the main septum of the sphenoid sinus, as well as its type (bone, membranous, or mixed) and frequency in the pre- endoscopic functional sinus surgery on the group of patients at Hanoi Medical University Hospital. Material and methods: A retrospective descriptive cross-sectional analysis of the main sphenoidal septum on 149 patients (75 women, 74 men) before functional endoscopic sinus surgery who underwent MSCT without intravenous contrast to measure the height of the main septum of the sphenoid sinus and the main septum type. MSCT imaging procedure from frontal sinus to the end of sphenoid sinus with 0.625mm thin layers, reconstructed in coronal plane perpendicular to hard palate and axial parallel to hard palate. The main septum height was measured on the coronal plane from the inferior wall to the superior wall, measured in a straight line (if the main septum is straight) or curved (if the main septum is irregular). The main septum of the sphenoid sinus was divided into 3 types: completely bony, semi-membranous, and completely membranous. Results: The mean age of the group of patients was 46.6±15, the lowest age was 8, the highest was 77. The average height of the main septum of the sphenoid sinus was 19.7±6.4 mm, the lowest was 7 mm, the highest was 33 mm. Among 149 patients, there were 67 patients (accounting for 45%) the main septum was completely bone type. There were 77 patients (accounting for 51%) with mixed main septum (semi-membranous). Only 6 patients (4%) of the main septum of the sphenoid sinus were completely membranous. There was no statistically significant difference in the height of the main septum of the fully membranous sinus with the bony or semi-membranous type. However, there was a statistically significant difference (p=0.026) in height between the main septum of the sphenoid sinus of the fully bony type and the semi-membranous type. Conclusions: The main septum of sphenoidal sinus needs to be fully evaluated on sinus MSCT before transsphenoidal surgery to access the pituitary to avoid potential complications from these anatomical changes.