Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị rắn lục đuôi đỏ cắn ở trẻ em tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2020 đến năm 2022

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị rắn lục đuôi đỏ cắn ở trẻ em tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2020 đến năm 2022
Tác giả
Nguyễn Đình Tuyến; Hồ Kim Đức
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
1B
Trang bắt đầu
136-141
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị rắn lục đuôi đỏ cắn ở trẻ em tại Bệnh viện sản nhi tỉnh Quảng Ngãi. Đối tượng và phương pháp: Mô tả cắt ngang trẻ nhập viện tại Khoa hồi sức tích cực- chống độc, Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Quảng Ngãi từ 01/2020 đến 12/2022. Kết quả: Gồm 81 trường hợp, tuổi hay gặp trên 6, trung bình 9,9 ± 3,8 tuổi; nam nhiều hơn nữ. Triệu chứng tại chỗ gồm: móc độc, đau, sưng tại chỗ (>90%), chảy máu tại chỗ 13,5%; bầm tím 65,4%; bóng nước 21%; hoại tử 3,7%; nhiễm trùng 25,9%. Vị trí vết cắn ở chân 77,4%; Chảy máu chân răng 5%, chảy máu cam 5%. Bạch cầu tăng ở nhóm nặng; 21% PT kéo dài; 19,8% INR tăng; 16% aPTT kéo dài; 22,2% rối loạn đông máu; Các biện pháp sơ cứu như đắp thuốc 29,6%, bất động bằng nẹp 18,5%, garrot 11%, rửa vết thương 60,5%. Dùng huyết thanh kháng nọc rắn (HTKNR) 53,1%; truyền 2 lần 4,65%; 3 lần 2,32%. Tổng số lọ HTKNR từ 4-6 34,6%; 90,7% truyền trong 24 giờ kể từ khi bị rắn cắn; 80,2% bệnh nhân dùng kháng sinh. Thời gian nằm viện trung bình là 5,38 ± 3,25 ngày; không có biến chứng và tử vong. Kết luận: Triệu chứng tại chỗ chủ yếu là móc độc, đau, sưng. Vết cắn đa số ở bàn chân; tỉ lệ chảy máu ít. Rối loạn đông máu ở nhóm trung bình- nặng, bạch cầu tăng nhóm nặng. Đắp thuốc nam, garrot làm tăng nguy cơ nặng; bất động bằng nẹp, rửa vết thương là yếu tố làm giảm độ nặng. HTKNR sử dụng hiệu quả nhất trong 24 giờ đầu, đặc biệt trong 6 giờ đầu kể từ lúc bị rắn cắn; đa số cần dùng kháng sinh. Thời gian nằm viện ngắn, không có biến chứng và tử vong.

Abstract

Description of clinical, paraclinical characteristics and assessment of treatment results of pediatric patients with cryptelytrops albolabris bites at Quang Ngai Obstetrics and Pediatrics Hospital. Method: Cross-sectional description of children hospitalized with cryptelytrops albolabris bites at Intensive Care Unit- Poison Control Department, Quang Ngai Pediatrics and Obstetrics Hospital between January 2020 and December 2022. Result: Most cases are over 6 years old, an average of 9.9 ± 3.8 years old; the ratio of male to female is 2.2/1; accidents happen any time of the year, especially from April to June with 39.6%, the most frequent time of snake bites is at 1.00 p.m to – 12. 00 p.m per day; the figure for hospitalizing before 6 hours was 79%; Most were accidentally bitten by a snake. Local symptoms with toxic hook, pain and local swelling are over 90%, hemorrhage accounts for 13.5%; bruising reaches 65.4%; bullous skin is 21%; necrosis is 3.7%; and the proportion of infection is 25.9%. Snake-bite on the leg accounts for 77.4%, of which at the foot is 70.4%. The percentage of Odontorrhagia and epistaxis is equal, by 5%; there is no gastrointestinal bleeding. Hemoglobin is normal, platelets do not decrease; leukocyte increase in a severe group; prolonged PT with 21%; 19.8% INR increase; 16% prolonged aPTT; 22.2% coagulopathy; it belongs to moderate and severe toxicity. First aid can include applying herbal medicine at 29.6%, immobilization with splints at 18.5%, 11% garrot, and wound washing by 60.5%. Using anti-snake venom (ASV) is 53.1%; among them, using ASV 2 times is 4.65%, and ASV 3 times is 2.32% in the group of assigning to use ASV. The number of vials of 4-6 ASV vials accounts for the highest rate of 34.6%. 90.7% of patients in the group are indicated for ASV infusion within 24 hours of snake bite. A hundred percent record no side effects while using ASV. 80.2% of patients need antibiotics. Among them, oral antibiotics get a high rate of 63%. Two severe cases receive plasma transfusion. The mean hospitalization is 5.38 ± 3.25 days (27-2). All are without complications and death. Conclusion: Applying herbal medicine and garrot increases severe risk; immobilization with splints and wound washing reduces the severity. ASV is most effective within the first 24 hours, especially within the first 6 hours after a snake bite. However, it can be considered for severe poisoning cases even if hospitalization is later than 24 hours. It is necessary to repeat ASV infusion when clinical and paraclinical still do not improve much.