Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ung thư biểu mô buồng trứng tái phát tại Bệnh viện Từ Dũ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị ung thư biểu mô buồng trứng tái phát tại Bệnh viện Từ Dũ
Tác giả
Phạm Văn Mạnh; Nguyễn Hồng Hoa; Trần Minh Lộc
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
ĐB1
Trang bắt đầu
150-156
ISSN
2615-9686
Tóm tắt

Ung thư biểu mô buồng trứng (UTBMBT) tái phát có biểu hiện lâm sàng kém đặc hiệu, chẩn đoán chủ yếu dựa vào cancer antigen 125 (CA-125) và hình ảnh học. Đồng thời, phác đồ điều trị chưa đồng nhất nên chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả UTBMBT tái phát vẫn còn là thách thức. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và điều trị UTBMBT tái phát tại Bệnh viện Từ Dũ. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca hồi cứu 126 bệnh nhân UTBMBT tái phát tại bệnh viện Từ Dũ (BVTD) từ 01/01/2016 đến 30/06/2022. Kết quả: 35.9% bệnh nhân UTBMBT tái phát có triệu chứng cơ năng và 31.8% khám lâm sàng có bất thường. Nồng độ CA-125 trung bình 168 ± 362.7 U/mL. 94 bệnh nhân UTBMBT tái phát tăng nồng độ CA-125. thời gian tái phát sinh hóa trung bình 1.9 ± 1.8 tháng. Trên siêu âm: Bướu tái phát tại vách chậu (36.5%), mỏm cắt âm đạo (31.8%), tỉ lệ tương ứng trên MRI là 41.9% và 48.4%. Kích thước bướu lớn nhất trung bình trên siêu âm là 47.6 ± 28.4 mm và MRI là 42.6 ± 26.3 mm. Về phương pháp điều trị ung thư tái phát: Hóa trị hỗ trợ (65.1%), phẫu thuật giảm khối (19.8%), hóa trị tân hỗ trợ (14.3%), chăm sóc giảm nhẹ (0.8%). Trong đó 76.2% bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn với điều trị. Kết luận: Chẩn đoán UTBMBT tái phát chủ yếu dựa vào cận lâm sàng (CA-125. siêu âm, MRI), trong đó hình ảnh học là quan trọng nhất. Điều trị UTBMBT tái phát là kết hợp đa mô thức trong đó hóa trị nền tảng Platinum có vai trò quan trọng nhất.

Abstract

Clinical presentations of relapsed epithelial ovarian cancer (EOC) are unspecific, diagnosis essentially made by cancer antigen 125 (CA-125) and radiologic studies. Concurrently, management of relapsed EOC is in debatement, so that early diagnosis and efficient treatment remain a great challenge. Objective: Investigating clinical features, laboratoryinvestigations and treatments of relapsed EOC at Tu Du hospital. Methods: This was a prospective case series study on 126 relapsed EOC patients at Tu Du hospital from 01/01/2016 to 30/06/2022. Results: 35.9% of relapsed EOC patients had signs and symptoms and 31.8% of patients had abnormal physical examination. Mean level of CA-125 was 168 ± 362.7 U/mL. 94 relapsed EOC patients had elevated CA-125 level and mean biochemical relapsed time was 1.9 ± 1.8 months. On pelvic ultrasound: relapsed tumor on pelvic (36.5%), on vaginal cuff (31.8%); 41.9% and 48.4% on MRI, correlatively. Mean maximum tumor diameter on pelvic ultrasound was 47.6 ± 28.4 mm, 42.6 ± 26.3 mm on MRI, correlatively. About management: Adjuvant chemotherapy (65.1%), surgery (19.8%), neoadjuvant chemotherapy (14.3%), palliative care (0.8%). In which, 76.2% of total patients responded to initial treatments. Conclusions: Relapsed EOC is primarily diagnosed by laboratoryinvestigations (CA-125, ultrasound, MRI), in which imaging is essential. Management of relapsed EOC is multiple therapy, in which Platinum-based chemotherapy is the most essential treatment.