
Thuyên tắc phổi nguy cơ trung bình – cao chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số bệnh nhân thuyên tắc phổi nhập viện. Các bệnh nhân này cần được theo dõi sát sao vì có nhiều khả năng có các biến chứng liên quan tới thuyên tắc phổi và có thể cần lên thang công thức điều trị. Hiện dữ liệu tại Việt Nam mô tả về nhóm đối tượng này còn hạn chế. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của các bệnh nhân thuyên tắc phổi nguy cơ trung bình – cao nhập viện. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu, từ 01/01/2022 đến 30/05/2023, tại khoa Nội Tim mạch, Bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Chúng tôi thu nhận 75 trường hợp vào mẫu nghiên cứu với độ tuổi trung bình là 62,28 ± 17,28 tuổi, nữ giới chiếm đa số (64%). Béo phì chiếm tỉ lệ cao (28%) và cũng là yếu tố nguy cơ thường gặp nhất. Triệu chứng cơ năng chủ yếu là khó thở (84%) và mạch nhanh (74,66%) là triệu chứng thực thể được ghi nhận nhiều nhất. Điểm PESI trung bình là 105,76 ± 32,84 điểm. Hầu hết bệnh nhân đều có tăng troponin và NT-proBNP. Nhịp nhanh xoang (68%) là bất thường điện tâm đồ thường gặp nhất. Tất cả bệnh nhân đều có suy thất phải với TAPSE trung bình là 14,19 ± 2,73 mm. Huyết khối động mạch phổi chủ yếu phân bố tại nhánh chính (64,67%), 85,33% bệnh nhân có huyết khối lan tỏa hai bên. Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới được ghi nhận ở 60% trường hợp. Gần 1/3 bệnh nhân có diễn tiến lâm sàng nặng hơn trong quá trình điều trị nội trú. Kết luận: Thuyên tắc phổi nguy cơ trung bình – cao chủ yếu gặp ở những bệnh nhân nữ, lớn tuổi. Béo phì có thể có liên quan với mức độ nặng của bệnh. Hầu hết trường hợp đều có đa dạng biểu hiện của suy thất phải trên các phương tiện cận lâm sàng. Một tỉ lệ khá cao các bệnh nhân có diễn tiến mất bù trong quá trình theo dõi. Việc hiểu rõ về đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng có thể giúp phân tầng nguy cơ chính xác hơn và có chiến lược điều trị phù hợp.
Intermediate – high risk pulmonary embolism accounts for a relatively high portion of all hospitalized patients with the diagnosis of pulmonary embolism. These patients have the potential for pulmonary embolism – related complications and may required scale up the treament strategy, and then should be closely monitored. There are limited domestic data in Vietnam describing this target group recently. Objective: To describe the clinical and paraclinical characteristics of hospitalized intermediate – high risk pulmonary embolism patients. Patients and methods: A descriptive cross – sectional, retrospective and prospective study, from 01/01/2022 to 30/05/2023, at the Department of Cardiology, Cho Ray Hospital. Results: 75 cases was enrolled with an average age of 62,28 ± 17,28 years old, female accounted for the majority (64%). Obesity accounted for 28% and was also the most common risk factor. Dyspnea (84%) and tachycardia (74,66%) were the main symptom and sign. The mean PESI score was 105,76 ± 32,84 points. Most patients had elevated troponin and NT-proBNP. Sinus tachycardia (68%) was the most common ECG abnormality. All patients had right ventricular failure with a mean TAPSE of 14,19 ± 2,73 mm. Pulmonary artery thrombus was mainly distributed in the main branch (64,67%), 85,33% of patients had bilateral thrombosis. Deep vein thrombosis was observed in 60% of cases. Nearly one third of the patients had deteriorated clinical conditions during in-hospital stay. Intermediate – high risk pulmonary embolism mainly occured in elderly, female patients. Obesity may be associated with disease severity. In most cases, there were various manifestations of right ventricular failure on the paraclinical features. A high percentage of patients developed decompensation during follow-up. A better understading of clinical and paraclinical characteristics may be useful in better risk stratification and appropriate management.
- Đăng nhập để gửi ý kiến