
Thoát vị rốn là một bệnh lý thoát vị phổ biến, đặc biệt trên nhưng bệnh nhân xơ gan cổ trướng. Mục tiêu: đánh giá các đặc điểm về lâm sàng, cận lâm sàng thoát vị rốn ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu, báo cáo loạt ca bệnh 43 trường hợp phẫu thuật điều trị thoát vị rốn ở bệnh nhân xơ gan cổ trướng từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2022 tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Phân bố giới tính nam/nữ là 4/1. Độ tuổi trung bình 56,9 ± 10,7 tuổi (27 – 79 tuổi). Chỉ số BMI được phân làm bốn nhóm: nhẹ cân 9/43 trường hợp (9,3%), bình thường 22/43 trường hợp (51,2%), thừa cân 8/43 trường hợp (18,6%) và béo phì 9/43 trường hợp (20,9%). Tất cả bệnh nhân đều thuộc phân nhóm ASA 3 và 4. 100% bênh nhân nhập viện có xuất hiện khối phồng ở rốn. Thoát vị kẹt và ấn đau khối thoát vị lần lượt 51,2% và 55,8%. Có 8/43 trường hợp (18,6%) có biến chứng vỡ khối thoát vị. Kích thước khối thoát vị trung bình 6,4 ± 5,1 cm (2 – 30 cm). Bệnh nhân được chẩn đoán chủ yếu dựa vào khám lâm sàng những trường hợp khó chẩn đoán có sự hỗ trợ của chẩn đoán hình ảnh trong đó những trường hợp có biến chứng quanh rốn và những dấu hiệu nghi ngờ tắc ruột có xu hướng được chỉ định chụp CT Scan bụng 31/43 trường hợp (chiếm 72,1%.) Phần lớn bệnh nhân được chỉ định mổ cấp cứu 37/43 trường hợp (86%). Kết luận: Triệu chứng lâm sàng điển hình chủ yếu chẩn đoán dựa vào triệu lâm sàng, hình ảnh học được sử dụng trong những trường hợp phức tạp cần đánh giá thêm thành phần và tình trạng bên trong túi thoát vị. Những trường hợp nghi ngờ biến chứng nên được chụp CT scan bụng để khảo sát các biến chứng và tình trạng thoát vị để có hướng điều trị thích hợp.
Umbilical hernia is a common disease, especially in special subjects such as cirrhosis and ascites. Object: Evaluate the clinical, subclinical of umbilical hernia in patients with cirrhosis and ascites. Subjects – Methods: Retrospective study, case series report of 43 cases of surgical treatment of umbilical hernia in patients with cirrhosis ascites from January 2018 to December 2022 at Cho Ray Hospital. Results: The sex distribution male: female is 4:1. The mean age is 56,9 ± 10,7 years old (27 - 79 years old). BMI is classified into four groups: underweight 9/43 cases (9,3%), normal 22/43 cases (51,2%), overweight 8/43 cases (18,6%) and obese 9 /43 cases (20,9%). 100% of patients admit to the hospital have a bulge in the umbilicus. Hernia incarceration and painful pressing hernia mass are 51,2% and 55.8%. There are 8/43 cases (18,6%) that have complications of rupture of the hernia. The average size of the hernia mass is 6,4 ± 5,1 cm (2 – 30 cm). Patients are diagnosed mainly based on clinical examination. Cases are difficult to diagnose required the support of imaging diagnosis, in which cases with complications around the umbilicus and signs of suspetected intestinal obstruction tend to be diagnosed by CT Scan. Abdominal CT Scan is indicated in 31/43 cases (72,1%). The majority of patients are referred for emergency surgery in 37/43 cases (86%). Conclusions: Typical clinical symptoms are diagnosed mainly based on clinical symptoms, imaging techniques are used in complicated cases requiring further assessment of the composition and condition inside the hernia sac. Cases of suspected complications should have an abdominal CT Scan to investigate the hernia status for appropriate treatment.
- Đăng nhập để gửi ý kiến