
Viêm loét giác mạc nhiễm trùng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù/giảm thị lực trầm trọng. Bệnh khởi phát do sự mất cân bằng giữa hệ thống phòng thủ của bề mặt nhãn cầu và sự phát triển quá mức của vi sinh vật, trong đó chấn thương là yếu tố hàng đầu và là điều kiện tiên quyết tạo cơ hội cho vi sinh tấn công trực tiếp mô giác mạc. Do sự khác biệt về vị trí địa lý, trình độ kinh tế – xã hội nên loại vi sinh gây bênh cũng phát triển khác nhau. Song song đó ý thức người dân còn hạn chế về độ nghiêm trọng của bệnh nên có những hành vi góp phần gây biến chứng. Như vậy việc chẩn đoán sớm và điều trị đúng từ đầu là vấn đề rất quan trọng, quyết định đến hiệu quả điều trị. Theo thời gian với tình hình kinh tế xã hội phát triển, tác nhân vi sinh ở các vùng địa lý, dân cư cũng có thể thay đổi do đó các biểu hiện lâm sàng, đặc điểm vi sinh có thể có nhiều sự biến đổi theo. Nhằm cập nhật vấn đề mang tính thời sự và góp phần vào việc chẩn đoán, nâng cao hiệu quả điều trị, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng, vi sinh và mối liên quan của các đặc điểm đó với tiên lượng thị lực và kết quả điều trị viêm loét giác mạc nhiễm trùng sau chấn thương. Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu, mô tả. Bệnh nhân được chẩn đoán viêm loét giác mạc có tiền căn bị chấn thương đến khám và điều trị tại khoa Giác mạc, Bệnh viện Mắt thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 5/2023 đến 11/2023. Có phiếu thu thập thông tin được sử dụng để ghi nhận bệnh sử, các yếu tố nguy cơ, kết quả xét nghiệm vi sinh, theo dõi điều trị và ghi nhận các đặc điểm lâm sàng tại mắt trước và sau điều trị. Viêm loét giác mạc do các nguyên nhân khác (virus, amip, bệnh lý tự miễn, đeo kính tiếp xúc) được loại khỏi nghiên cứu. Kết quả: Nghiên cứu gồm 60 mắt, tuổi trung bình là 47 ± 11,1 tuổi, nam mắc bệnh cao hơn nữ (71,7%). Đa số chấn thương là do tai nạn sinh hoạt (67%), trong đó tác nhân bụi đất chiếm hàng đầu (36,7%). Thời gian bị chấn thương trước vào viện trung vị là 10 ngày. Tỷ lệ soi tươi dương tính 62,7%, nuôi cấy dương tính 37,5% cho kết quả vi sinh đơn tác nhân do nấm chiếm nhiều nhất (45%), tiếp theo đa tác nhân chiếm 16,7%. Staphylococcus coagulase âm kháng Methicillin là tác nhân phổ biến nhất (86,6%). Lúc vào viện, 98,3% bệnh nhân có thị lực dưới 3/10. Có 58% bệnh nhân cần can thiệp phẫu thuật, trong đó 46,7% do biến chứng dọa thủng giác mạc, thủng giác mạc và chậm lành biểu mô giác mạc. Dán keo và kính tiếp xúc là phương pháp được lựa chọn nhiều nhất (65,7%). Thị lực sau điều trị có cải thiện đáng kể so với thị lực lúc vào viện (p < 0,05). Kết luận: Viêm loét giác mạc sau chấn thương chủ yếu do tai nạn sinh hoạt, bụi đất, thị lực ở mức mù vẫn chiếm ưu thế. Nấm là tác nhân gây bệnh phổ biến nhất.
Infectious keratitis is one of the leading causes of blindness/ severe vision impairment. That is triggered by an imbalance between ocular surface defense system and microbial overgrowth, in which trauma is the most common risk factor. Due to the disparity between geographical location and socioeconomic status, pathologic microorganisms would develop differently. Besides, people’ limited awareness about the severity of disease would partly induce to complications. Thus, prompt diagnosis and right treatment at the beginning is obviously critical related to the efficiency of treatment. As time goes on, clinical and microbiological characteristics may change along with the development of the socio-economic status and pathologic microorganisms. We conduct this research to update the current issues and contribute to prompt diagnosis, improved clinical outcomes. Purpose: To investigate the clinical and microbiological characteristics and correlation between these factors with clinical outcomes of post-traumatic infectious keratitis. Method: An observational prospective study was performed on patients diagnosed with post-traumatic infectious keratitis from May 2023 to November 2023 at the corneal department of Ho Chi Minh city Eye Hospital. A data collection form was used to document patient demographics, risk factors, microbiological diagnosis, pretreatment and posttreatment ocular characteristics. Any contact lens-induced keratitis was excluded from the study. Results: IK was diagnosed in 60 eyes, the mean age was 47 ± 11,1y. significantly more were male (71,7%) than female. The majority of patients (67%) had sustained domestic injury, in which dust is the most common factor (36,7%). The median time between onset of symptoms and presentation to the hospital was 10d. Smear-positive corneal scrapings were 62,7%, culture-positive results were 37,5%. Monomicrobial fungus was the most common (45%), followed by polymicrobial (16,7%). Methicillin – resistant coagulase negative Staphylococci was predominant isolates (86,6%). 98,3% patients had visual acuity less than 3/10 at presentation. 58% patients required surgery, in which 46,7% cases got complications: impending/corneal perforation, persistent corneal epithelial defects. Gluing and wearing contact lens is the most selected method (65,7%). Visual acuity at 6 months was significantly improved than that at presentation (p < 0,05). Conclusion: Post-traumatic keratitis is mainly secondary from domestic injury, dust, blindness is predominant. Fungus is the most common pathologic microorganism.
- Đăng nhập để gửi ý kiến