
Mô tả các đặc điểm tổn thương thành mạch trên phim cộng hưởng từ độ phân giải cao (HR-MRI: high-resolution magnetic resonance imaging) của những bệnh nhân đột quỵ thiếu máu cục bộ có hẹp động mạch nội sọ. Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: mô tả loạt ca. Chúng tôi hồi cứu 38 bệnh nhân (tuổi ≥18) đến khám/ điều trị tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ tháng 01/2020 đến tháng 07/2020. Kết quả: Kiểu hẹp lệch tâm chiếm 84,2% (32 trường hợp), hẹp đồng tâm chiếm 15,8% (6 trường hợp). 30 (78,9%) trường hợp có bắt Gadolinium thành mạch tại vị trí hẹp; 21,1% không bắt Gadolinium. 100% nhóm hẹp đồng tâm có hình ảnh bắt Gadolinium, 24 trường hợp nhóm hẹp lệch tâm có bắt Gadolinium (75%). Mức độ hẹp trung bình của dân số nghiên cứu là 48,7±21,7%. Tỉ lệ tái cấu trúc trung bình là 0,88±0,26. Tái cấu trúc kiểu co chiếm 62,2% (23 trường hợp), tái cấu trúc kiểu phình chiếm 24,3% (9 trường hợp). Hẹp lệch tâm ưu thế trên nhóm dân số >45 tuổi trong khi hẹp đồng tâm ưu thế ở nhóm ≤45 tuổi; khác biệt về kiểu hẹp giữa hai nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê (p=0,008). Trong 7 bệnh nhân bóc tách động mạch, 3 trường hợp có một hoặc nhiều dấu hiệu gợi ý bóc tách động mạch (dấu hiệu chuỗi, dấu hiệu lòng đôi) trên phim MRA; 4 trường hợp còn lại được chẩn đoán bóc tách động mạch dựa trên kết quả từ phim HR-MRI với các dấu hiện lòng đôi và xuất huyết trong thành mạch. Kết luận: kiểu hẹp mạch máu lệch tâm chiếm ưu thế trong nghiên cứu, gợi ý nhóm xơ vữa động mạch đóng vai trò quan trọng trong cơ chế gây hẹp mạch nội sọ. Kiểu hẹp mạch máu đồng tâm ưu thế trên nhóm dân số trẻ, gợi ý đến nhóm nguyên nhân gây hẹp không do xơ vữa. HR-MRI có thể giúp phát hiện các bất thường thành mạch nội sọ như dấu hiệu lòng đôi và mảng nội mạc, trong chẩn đoán hẹp nội sọ do bóc tách động mạch.
Using high-resolution magnetic resonance imaging (HR-MRI), our aim was to investigate the vessel wall c-haracteristics of intracranial artery stenosis in ischemic stroke patients. Methods: This is a retrospective observational study including 38 patients with diagnosis of ischemic stroke associated with intracranial stenosis referred to the Neurology Department of Hochiminh City University Medical Center- Vietnam f-rom January 2020 to July 2020. Results: Eccentric stenosis was observed in 32 (84.2%) patients and concentric stenosis in 6 (15.8%) patients. Eccentric stenosis was more frequently reported in the patients >45 years old and concentric stenosis was more common in the patients ≤45 years old (p=0.008). All concentric stenosis (6/6, 100%) had enhanced images on HR-MRI, as compared with eccentric stenosis (24/32, 75%; p=0.309). Mean degree of stenosis was 48.7± 21.7%. Mean remodeling ratio was 0.88±0.26. Constrictive artery remodeling was observed in 23 patients (62.2%), expansive artery remodeling in 9 (24.3%). In 7 patients with intracranial artery dissection, 3 patients had positive dissection findings such as string sign and double lumen on MRA; theremainderwere diagnosed dissection based on HR-MRI fndings of double lumen and hemorrhage in false lumen. Conclusion: Eccentric stenosis was observed more frequently in our study suggesting that atherosclerosis is the important cause of intracranial stenosis. Concentric stenosis was more common in young patients suggesting of non-atherosclerosis disease as an important etiology in youth stroke. HR-MRI can help find thevessel wall c-haracteristics of intracranial artery dissection such as double lumen and intimal flap.
- Đăng nhập để gửi ý kiến