
Dẫn lưu thận lạc chỗ vào tĩnh mạch chủ dưới là một biến chứng nặng và rất hiếm gặp sau tán sỏi thận qua da (TSQD) vì vậy có rất ít tài liệu trong nước và trên thế giới về biến chứng này, với biến chứng này nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời thì sẽ để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng thậm trí dẫn đến tử vong. Chúng tôi báo cáo một ca bệnh đặt dẫn lưu bể thận lạc chỗ vào tĩnh mạch chủ dưới kèm theo các ổ giả phình và thông động tĩnh mạch ở nhu mô thận sau TSQD ở một bệnh viện khác và được chuyển đến bệnh viện Đại học y Hà nội trong tình trạng chảy máu, sau khi vào viện bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định với các tổn thương như trên và xử trí cấp cứu can thiệp mạch dưới DSA để nút các ổ giả phình và thông động tĩnh mạch bằng coil và keo sinh học, sau khi ổn định bệnh nhân được chụp tĩnh mạch thận, tĩnh mạch chủ dưới, rút dẫn lưu thận và nút tổn thương bằng surgicel. Không có biến chứng nghiêm trọng nào sau các can thiệp trên, tuy nhiên có một ít huyết khối bám vào thành tĩnh mạch chủ nhưng với lượng ít nên không cần dùng thuốc chống đông. Trong quá trình rút dẫn lưu có sự tham gia của bác sỹ phẫu thuật tiết niệu, phẫu thuật tim mạch, gây mê, hồi sức và can thiệp chẩn đoán hình ảnh để chủ động can thiệp khi có các sự cố. Trước và sau can thiệp bệnh nhân được theo dõi liên tục tại khoa Cấp Cứu – Hồi sức tích cực. Rút dẫn lưu bể thận lạc chỗ vào tĩnh mạch có thể thực hiện nhờ mổ mở hoặc rút đơn thuần dưới sự giảm sát của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Trong đó các báo cáo cho thấy rút dẫn lưu đơn thuần dưới các phương tiện chẩn đoán hình ảnh đảm bảo được tính an toàn và nhẹ nhàng hơn so với mổ mở để rút dẫn lưu.
Intravenous misplacement of the nephrostomy catheter following percutaneous nephrostolithotomy (PCNL) is severe and extremely rare, and little information is available about this complication. Because the patient’s prognosis may be poor, sufficient attention should be paid to early identification and treatment of this complication. We report a case with intravenous nephrostomy catheter misplacement and active bleeding focis after PCNL in another hospital and was transferred to our hospital. The patient underwent vascular intervention to plug the pseudoaneurysms and arteriovenous fistula with coils and bio-glue. After that, the patient underwent renal vein – inferior vena cava angiography, renal sinus drainage and lesion node with surgicel. There were no severe complications. However, there is a small amount of thrombus attached to the vena cava wall but no anticoagulation was needed. During the withdrawal process, urological surgeon, cardiovascular surgeon, anesthesiologist, resuscitator and radiological intervention were involved. Before and after withdrawal, the patient was continously monitored at the Emergency – Intensive Care Department. Withdrawal could be performed by open surgery or under the supervision of imaging modalities. In which, the reports showed that drainage under supervision of imaging modalities was safer and less invasive than open surgery.
- Đăng nhập để gửi ý kiến