
Xác định tỷ lệ, kích thước trung bình của tế bào đê mũi trên cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT) ở các bệnh nhân (BN) viêm mũi xoang mãn tính và mối liên quan giữa hình ảnh tế bào đê mũi và bệnh lý viêm xoang trán. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bằng phân tích tế bào đê mũ trên 222 BN được chụp MSCT xoang không tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh và Can thiệp điện quang, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 09/2020 đến tháng 09/2022. Quy trình chụp MSCT từ xoang trán đến hết xoang bướm với các lớp mỏng 0.625mm, tái tạo theo mặt phẳng đứng ngang (coronal) vuông góc với khẩu cái cứng và cắt ngang (axial) song song với khẩu cái cứng. Tế bào đê mũi được xác định là các tế bào khí nằm sau mỏm trán cửa xương hàm trên, kích thước được xác định trung bình theo chiều trên dưới và trước sau. Kết quả: Nghiên cứu được thực hiện trên 222 BN có viêm mũi xoang mạn tính. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân là 47,7±14,4, dao động từ 8-77 tuổi với 109 BN (49,1%) nam và 113 BN (50,9%) nữ. Trong số 222 BN có 191 BN có tế bào đê mũi (86%) và có 31 BN (14%) không có tế bào đê mũi. Trong đó bên phải ở 172 BN (90%), bên trái có 189 BN (99%), sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kích thước trung bình của tế bào đê mũi bên phải là 7,06±2,48mm và bên trái là 6,59±3,29mm, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt giữa tuổi và giới của đối với bệnh nhân có và không có tế bào đê mũi và kích thước, tỷ lệ của tế bào đê mũi bên phải và bên trái. Có 155 BN (69,8%) có hình ảnh viêm xoang trán, và có 133 BN (59,9%) có viêm xoang trán có tế bào đê mũi và 9 BN (4,1%) không có viêm xoang trán, không có tế bào đê mũi, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận: Tế bào đê mũi là biến thể giải phẫu hay gặp. Hiện không thấy mối liên quan giữa sự có mặt của tế bào đê mũi và tỷ lệ viêm xoang trán.
Determine the proportion and average size of Agger Nasi cells (ANCs) on Multislice Computed Tomography (MSCT) in patients with chronic rhinosinusitis and the correlation of Agger Nasi cells and frontal sinusitis. Subjects and methods: a retrospective study in 222 patients having chronic rhinosinusitis and undergoing sinus MSCT without intravenous contrast injection at Radiology Center-Hanoi Medical University Hospital from September 2020 to September 2022. MSCT scanning procedure from the frontal sinus to the end of the sphenoid sinus with 0.625mm thin layers, reconstructed in the coronal plane perpendicular to the hard palate and axial parallel to the hard palate. We considered ANCs those air cells located within the frontal process of the maxillary bone, the average size is determined in the upper-lower and front-back. Results: The study included 222 patients with chronic rhinosinusitis. The average age of the patient group was 47.7±14.4, ranging from 8-77 years old with 109 patients (49.1%) male and 113 patients (50.9%) female. Among 222 patients, ANCs was present in 191 (86%) and absent in 31 (14%) patients. Of which the right side is in 172 (90%), the left side is in 189 (99%) patients, the difference is not statistically significant. The average size of the right ANCs was 7.06±2.48mm and the left was 6.59±3.29mm, the difference was not statistically significant. There were no differences between age and sex of patients with and without ANCs and the size and ratio of right and left ANCs. There were 155 patients (69.8%) with frontal rhinosinusitis, and 133 patients (59.9%) with frontal sinusitis and ANCs and 9 patients (4.1%) without frontal sinusitis and without ANCs, the difference was not statistically significant. Conclusion: ANCs were a common anatomical variant. There was currently no relationship between the presence of ANCs and the rate of frontal sinusitis.
- Đăng nhập để gửi ý kiến