Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá hiệu quả đào tạo cấp cứu, điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá hiệu quả đào tạo cấp cứu, điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp
Tác giả
Đặng Việt Đức; Nguyễn Trọng Tuyển; Bùi Trọng Dương; Lưu Quang Minh
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
115-119
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá hiệu quả đào tạo nhân lực cấp cứu, điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp (acute ischemic stroke-AIS) tại 6 Bệnh viện quân y khu vực Phía Bắc năm 2022. Đối tượng và phương pháp: thiết kế nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang. Tiến hành đánh giá nguồn nhân lực, hiệu quả hoạt động của các nhóm cấp cứu AIS tại 6 Bệnh viện Quân y khu vực phía Bắc sau quá trình đào tạo về các phương diện bao gồm: số lượng, cơ cấu nhân sự, các kỹ thuật thực hiện được, kết quả thu dung cấp cứu bệnh nhân. Kết quả: Tuổi trung bình của NVYT trước đào tạo là 49,6  5,8, cao hơn so với tuổi của các NVYT sau đào tạo (38,4 ± 7,6 tuổi) có ý nghĩa thống kê. Mặc dù độ tuổi ≥40 là chủ yếu, tuy nhiên có sự trẻ hoá NVYT sau đào tạo. Đa phần NVYT là nam giới, chiểm khoảng 80%. Thời gian công tác trong chuyên ngành của NVYT sau đào tạo đột quỵ cao hơn trước, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Trước đào tạo, NVYT tham gia điều trị đột quỵ nhồi máu não chủ yếu là y bác sỹ chuyên ngành hồi sức tích cực (46,3%); tỷ lệ này xu hướng giảm (23,8%) sau khi các nhân viên được đào tạo sâu hơn về đột quỵ não. Tỷ lệ NVYT chuyên ngành nội thần kinh tăng từ 20 lên 30% sau đào tạo. Sau đào tạo, nhân viên y tế (NVYT) có trình độ chuyên môn bác sỹ 89 người chiếm tỷ lệ 55,6%, điều dưỡng 71 người chiếm tỷ lệ 44,6%. Trình độ của nguồn nhân lực tham gia các đơn vị đột quỵ có tới 61,3% từ đại học trở lên, đáp ứng nhu cầu xử lý, cấp cứu đột quỵ trong thời gian ngắn nhất, tỷ lệ này chưa có sự khác biệt so với trước đào tạo. Kết luận: Công tác đào tạo đã phát huy vai trò tích cực trong cải thiện hiệu quả cấp cứu, điều trị bệnh nhân AIS. Cần tiến hành rộng rãi và hiệu quả hơn trên phạm vi lớn nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể của hoạt động cấp cứu AIS trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên cần đầu tư nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, các kỹ thuật chuyên sâu nhằm đáp ứng xu hướng mới trong chiến lược cấp cứu, điều trị AIS trong nước và thế giới.

Abstract

Evaluate the effectiveness of emergency response training in diagnosing and treating acute ischemic stroke (AIS) patients at 6 military hospitals in the Northern Vietnam in 2022. Subjects and methods: Prospective, cross-sectional study. The assessment focused on the human resources and operational effectiveness of AIS emergency response teams in six Northern Military Hospitals following training. Key aspects evaluated included team size, personnel structure, proficiency in implementing techniques, and the outcomes of emergency care provided to AIS patients. Results: The average age of healthcare staff (HS) before training was 49.6 ± 5.8, statistically significantly higher than the age of those after training (38.4 ± 7.6 years). Although individuals aged 40 and above predominated, there was a trend of rejuvenation among HS after training. The majority of HS were males, comprising approximately 80% of the participants. The duration of specialized work in AIS field of HS after training was higher compared to before, although the difference was not statistically significant. Prior to training, HS primarily involved in the treatment of acute ischemic stroke were specialized intensive care doctors (46.3%); this percentage decreased to 23.8% after the staff received more in-depth training in stroke management. The proportion of HS with a neurology specialty increased from 20% to 30% after training. Following training, HS with a medical degree accounted for 55.6% (89 individuals), while nursing professionals comprised 44.6% (71 individuals). The educational background of personnel participating in stroke units showed that 61.3% had education of university level or higher, meeting the demand for rapid stroke handling and emergency care; however, this ratio did not differ significantly from before training. Conclusion: Training initiatives played a crucial role in improving the emergency response and treatment outcomes for AIS patients. A broader and more effective implementation of training programs on a national scale is recommended to enhance the overall effectiveness of AIS emergency response activities nationwide. However, further investments in raising the level of expertise and specialized techniques are necessary to address emerging trends in the national and global strategies for emergency response and AIS treatment.