
Theo Globocan 2020, ung thư vú chiếm tỷ lệ cao nhất 24,5% trong các loại ung thư ở phụ nữ trên toàn thế giới và chiếm 25,8% tại Việt Nam. Trong những bệnh nhân ung thư vú, có khoảng 60 - 70% bệnh nhân có thụ thể nội tiết estrogen (ER) dương tính, trong đó có 65% thụ thể progesterone (PR) dương tính. Những bệnh nhân có thụ thể nội tiết ER dương tính được điều trị liệu pháp nội tiết có tỷ lệ sống sót cao hơn so với những bệnh nhân có thụ thể nội tiết ER âm tính. Vì vậy, liệu pháp nội tiết tác động vào hoạt động Estrogen đã trở thành nền tảng trong điều trị ung thư vú trong hơn một thế kỷ qua. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cữu thuần tập hồi cứu, tương quan 142 đối tượng ung thư vú tại Trung tâm ung bướu - Bệnh viện Trung ương Huế trong khoảng thời gian từ 01/01/2018 đến ngày 01/06/2022. Điều kiện chọn mẫu là những đối tượng được chẩn đoán xác định ung thư vú giai đoạn không di căn xa và chưa điều trị liệu pháp nội tiết trước đó. Dữ liệu được thu nhập bằng bảng câu hỏi, tham khảo thông tin hồ sơ bệnh án. Nhập số liệu và phân tích thống kê thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0 và Excel 2016. Kết quả: Độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán ung thư vú là 49 ± 1,14, giai đoạn I - II chiếm 71,2%. Về đặc điểm phân tử, tỷ lệ ER (+) chiếm 124/142 (87,3%), PR (+) 115/142 (81%), Her - 2 (+) 37/142 (26,2%), Ki 67 ≥ 15% 54/121 (44,6%). Về hiệu quả điều trị, DFS 42,41 ± 0,94 tháng và OS 46,71 ± 0,46 tháng, tỷ lệ OS 4 năm 93,7%. Các yếu tố nguy cơ làm giảm DFS và/hoặc OS như N (+), Ki 67 ≥ 20%, 1 thụ thể nội tiết (+). 53,6% bệnh nhân có tác dụng phụ khi điều trị liệu pháp nội tiết, tuy nhiên hầu hết là độ 1 - 2 và không ghi nhận bất kỳ trường hợp nào tử vong liên quan đến tác dụng phụ của liệu pháp nội tiết. Kết luận: Đặc điểm về thể phân tử ung thư vú có tiên lượng xấu hơn với các nghiên cứu khác như tỷ lệ 2 thụ thể (+) thấp, chỉ số Ki 67 cao và tỷ lệ Her - 2 (+) cao. Tỷ lệ sống còn toàn bộ 4 năm chiếm gần 94% và liệu pháp nội tiết an toàn cho bệnh nhân.
According to Globocan in 2020, the percentage of breast cancer was 24.5% in the world and 25.8% in Viet Nam. Regarding breast cancer, having approximately 60 to 70% Estrogen Receptor - positive (ER). Breast cancers with ER - positive have around 65% with Progesterone Receptor - positive (PR). Patients who have breast cancer with ER - positive and hormone therapy usually have a higher overall survival rate than patients with ER - negative. Therefore, hormone therapy has become a standard therapy in hormone receptor-positive breast cancer for a century. Method: A descriptive retrospective cohort study on 142 breast cancer patients at Oncology center - Hue Central Hospital, from January 2018 to June 2022. Inclusionary criteria consist of non - metastatic stages and primary breast cancer with no previous hormone therapy. Statistics were collected by questionnaire survey, interview, and medical report. Statistical analysis was performed in SPSS 16.0 and Excel 2016. Results: The mean age of patients was 49 ± 1.14, and initial stages I - II was 71.2%. As for the current molecular classification, the rate of ER (+) was 124/142 (87.3%), PR (+) 115/142 (81%), Her - 2 (+) 37/142 (26.2%) and Ki 67 ≥ 15% 54/121 (44.6%). As regards the effectiveness, DFS was 42.41 ± 0.94 months, OS was 46.71 ± 0.46 months and the 4 - year survival rate was 93.7%. Following this, risk factors that reduced DFS and/or OS consisted of Lympho node - positive, Ki67 index which was higher than 20%, and one hormone receptor - positive. The number of patients who have undergone side effects of hormone therapy was 53.6% but almost side effects graded from 1 to 2 and we have never recorded any death related to adverse events. Conclusion: The prognostic features of molecular in breast cancer were likely worse than other foreign research that included the low rate of two hormone receptor - positive, the high Ki 67 index, and the high Her - 2 receptor - positive. In addition, the 4 - year survival rate was nearly 94% and the hormone therapy was safe for cancer patients.
- Đăng nhập để gửi ý kiến