
Đánh giá kết quả điều trị chửa ngoài tử cung vỡ có sốc tại Bệnh viện Quân y 103 từ năm 2020 - 2023. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mổ tả cắt ngang trên 100 bệnh nhân được chẩn đoán chửa ngoài tử cung vỡ có sốc điều trị tại Bệnh viện Quân Y 103 từ năm 2020 - 2023. Kết quả: Có 25 bệnh nhân được điều trị bằng phẫu thuật mở bụng chiếm 25% và 75 bệnh nhân được điều trị phẫu thuật nội soi chiếm 75%. Thời gian phẫu thuật trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng là 52,02±8,38phút, của nhóm phẫu thuật nội soi là 59,84±9,84phút. Lượng máu mất trong ổ bụng trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng là 1986,16±377,96ml, của nhóm phẫu thuật nội soi là 926,87±256,78ml. 100% bệnh nhân phẫu thuật mở bụng phải truyền máu, với phẫu thuật nội soi là 78,67%. Lượng máu truyền trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng là 821,09±351,80 ml, của nhóm phẫu thuật nội soi là 294,52±285,01 ml. Có 4% bệnh nhân nhóm phẫu thuật mở bụng và 17,33% bệnh nhân nhóm phẫu thuật nội soi sử dụng kháng sinh dự phòng, thời gian dùng kháng sinh trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng là 4,27±1,23 ngày, của nhóm phẫu thuật nội soi là 2,84±1,54 ngày. Số liều giảm đau sau mổ trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng là 2,34±0,48 liều, của nhóm phẫu thuật nội soi là 1,58±0,52 liều. Thời gian nằm viện trung bình của nhóm phẫu thuật mở bụng 4,48±1,14ngày, của nhóm phẫu thuật nội soi là 3,78±0,95ngày. Kết luận: Tỉ lệ điều trị chửa ngoài tử cung vỡ có sốc bằng phẫu thuật mở bụng là 25%, phẫu thuật nội soi là 75%. Nhóm phẫu thuật nội soi có thời gian phẫu thuật trung bình dài hơn nhóm phẫu thuật mở bụng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm phẫu thuật nội soi có lượng máu mất trong ổ bụng trung bình và lượng máu truyền trung bình ít hơn so với nhóm phẫu thuật mổ mở có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm phẫu thuật nội soi có số ngày sử dụng kháng sinh trung bình ngắn hơn, số liều giảm đau trung bình ít hơn và thời gian nằm viện trung bình ngắn hơn so với nhóm phẫu thuật mở bụng sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Evaluating the results of treatment for ruptured ectopic pregnancy with shock at Military Hospital 103 from 2020 - 2023. Subjects and methods: cross-sectional descriptive study on 100 patients diagnosed with rupture of ectopic pregnancy with shock treated at Military Hospital 103 from 2020 - 2023. Results: There were 25 patients treated by laparotomy (25%) and 75 patients treated by laparoscopy (75%). The mean surgery time of the laparotomy group was 52.02±8.38 minutes, of the laparoscopy group was 59.84±9.84 minutes. The mean intra-abdominal blood loss of the laparotomy group was 1986.16±377.96 ml and the laparoscopy group was 926.87±256.78 ml. 100% of patients undergoing laparotomy required blood transfusion, with laparoscopy 78.67%. The average amount of blood transfusion in the laparotomy group was 821.09±351.80 ml, and in the laparoscopy group was 294.52±285.01 ml. 4% of patients in the laparotomy group and 17,33% of patients in the laparoscopy group used prophylactic antibiotics, the mean antibiotic time of the laparotomy group was 4.27±1.23 days, 2.84±1.54 days of laparoscopy group. The average number of postoperative analgesic doses of the laparotomy group was 2.34±0.48 doses, and that of the laparoscopy group was 1.58±0.52 doses. The mean hospital stay of the laparotomy group was 4.48±1.14 days, and that of the laparoscopy group was 3.78±0.95 days. Conclusion: The rate of treatment of ruptured of ectopic pregnancy with shock by laparotomy is 25% and laparoscopy is 75%. The laparoscopy group had longer mean operative time, mean less intra-abdominal blood loss and mean blood transfusion, shorter mean days of antibiotic use, and fewer mean analgesic doses, and the mean hospital stay was shorter than the laparotomy group. This difference was statistically significant with p<0.05.
- Đăng nhập để gửi ý kiến