Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kết quả điều trị gãy kín thân hai xương cẳng tay ở trẻ em bằng phương pháp nắn kín xuyên đinh Kirschner qua da dưới màn tăng sáng tại Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ năm 2017-2018

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kết quả điều trị gãy kín thân hai xương cẳng tay ở trẻ em bằng phương pháp nắn kín xuyên đinh Kirschner qua da dưới màn tăng sáng tại Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ năm 2017-2018
Tác giả
Nguyễn Thanh Long; Nguyễn Thành Tấn; Nguyễn Quang Tiến
Năm xuất bản
2018
Số tạp chí
16
Trang bắt đầu
1-7
ISSN
2345-1210
Tóm tắt

Gãy thân hai xương cẳng tay là loại gãy thường gặp trong gãy xương ở trẻ em. Có nhiều phương pháp để điều trị loại gãy này nhưng hiện nay phương pháp nắn kín-xuyên đinh nội tủy qua da dưới màn tăng sáng được sử dụng phổ biến nhất để điều trị các trường hợp gãy ở trẻ lớn, có di lệch nhiều. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá kết quả điều trị gãy thân hai xương cẳng tay ở trẻ em bằng phương pháp nắn kín-xuyên đinh Kirschner nội tủy qua da dưới màn tăng sáng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu Mô tả, tiến cứu. Tất cả bệnh nhân 6 tuổi đến 15 tuổi, gãy thân hai xương cẳng tay được điều trị bằng phương pháp nắn kín-xuyên đinh nội tủy qua da dưới màn tăng sáng tại Bệnh Viện Nhi Đồng Cần Thơ từ tháng 4/2017 đến tháng 5/2018. Kết quả gồm 52 bệnh nhân. Tuổi trung bình là 10,96. Giới nam 65,4%, nữ 34,6%. Nguyên nhân do tai nạn sinh hoạt té chống bàn tay chiếm 84,6%. Gãy kiểu duỗi biến dạng gập góc ra sau chiếm 75%. Trên phim X-quang có 73,1% hai xương gãy cùng vị trí và gãy đoạn 1/3 giữa chiếm 50%. Đường gãy đa số là đường gãy ngang 76,9% ở xương quay và 67,3% ở xương trụ.90,5% có thời gian phẫu thuật dưới 45 phút. 82,7% nắn xuyên kim cả 2 xương. Nắn thất bại chuyển mổ mở 17,3%. Không có di lệch thứ phát. 100% liền xương trong 6 tháng. Lộ chân kim 4 trường hợp và có 1 trường hợp viêm da chân kim. Đánh giá kết quả sau cùng chức năng và thẩm mỹ theo thang điểm của Grace và Eversmann rất tốt và tốt chiếm tỷ lệ 92,3%, không có kết quả xấu kém.

Abstract

Both bone forearm fractures are common orthopedic injuries in fractures in children. The most popular management for these fractures is closed reduction associating with percutaneous insertion of intramedullary nail on fluoroscopy. Objectives To analyze the clinical and imaging characteristics, and the percutaneous insertion of intramedullary nail and closed reduction treatment and evaluate their outcomes. Materials and methods We carried out a prospective study on children 6-15 years of age at Cantho Children’s Hospital, Cantho, Vietnam with both bone diaphyseal forearm fractures who consented to the study from April 2017 to May 2018. Diagnosis was made by both clinical and radiologic assessment. They were managed by closed reduction treatment associating with percutaneous insertion of intramedullary nail on fluoroscopy. Results A total of 52 children with both bone diaphyseal forearm fractures were enrolled with a mean age of 10.96 years, male and female rates were 65.4% and 34.6% respectively. The main aetiological factor was a fall directly on a forearm (84,6%). Extension type with posterior displacement were the commonest (75%). Radiologic results manifested same level (73.1%) và middle of shaft (50%). Almost transverse fracture on radial is 76,9%, 67,3% on ulna. 90,5% of cases took less than 45 minutes in operation room (OR). 82,7% of cases underwent both bone closed reduction. 17,3% of cases were failed to align by closed reduction and had to undergo open fixation. No secondary displacement was recorded. Union was achieved in 100% subjects. 4 cases reported revealed nail and 1 case superficial infection. The outcomes were anatomically and functionally evaluated by using the Grace and Eversman rating system, 48 patients were excellent and good and none had unacceptable results.