Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá kỹ thuật sử dụng vạt mũi má trong tái tạo khuyết hổng khoang miệng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá kỹ thuật sử dụng vạt mũi má trong tái tạo khuyết hổng khoang miệng
Tác giả
Trần Anh Bích; Ngô Thúc Luân
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
184-188
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Phẫu thuật tái tạo khuyết hổng sau cắt bỏ ung thư xâm lấn vùng khoang miệng luôn luôn là thách thức trong phẫu thuật vùng đầu cổ. Các khuyết hỗng cần được tái tạo về giải phẫu cũng như chức năng, để tối ưu hóa về chức năng khoang miệng như phát âm, nhai, nuốt và thẩm mỹ. Vạt mũi má là vạt da-cân cơ dựa trên cuống mạch mặt, có nhiều ưu điểm về màu sắc, sức sống tốt, linh hoạt và sẹo nơi cho vạt kín đáo. Mục tiêu: đánh giá kỹ thuật sử dụng vạt mũi má trong tạo hình khuyết hổng tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ 1/2020 đến 10/2023. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: tiến cứu can thiệp lâm sàng không nhóm chứng. Nghiên cứu 32 trường hợp dùng vạt mũi má tái tạo khuyết hổng khoang miệng nhóm I, II. Kết quả: kích thước vạt mũi má: chiều rộng 2,7±0,25cm, chiều dài 5,8±0,3cm, độ dầy 1±0,1cm, cuống mạch: động tĩnh mạch mặt (32/32), chiều dài cuống mạch: 13,5±0,4cm. Các khuyết hỗng khoang miệng (theo LIU): nhóm I (13/32), nhóm II (19/32), không mất liên tục xương hàm dưới. Sau mổ, tất cả vạt đều sống, vùng cho vạt lành tốt. Sau 3 tháng, vùng nhận vạt lành, chức năng khoang miệng bình thường, vùng cho vạt lành tốt. Biến chứng: 7/32 trường hợp (TH) liệt nhánh thần kinh bờ hàm dưới độ III-IV, hồi phục sau 6 – 8 tháng, 5/32 TH liệt mặt độ III và 2/32 TH liệt mặt độ IV. Kết luận: vạt mũi má có cuống mạch dài, khá ổn định, tỉ lệ sống cao, là một lựa chọn tốt để tái tạo khuyết hổng kích thước vừa trong khoang miệng.

Abstract

Reconstructing defects after the surgical removal of invasive oral cavity cancer is always a challenge in head and neck surgery. These defects need to be reconstructed anatomically and functionally to optimize oral cavity functions such as speech, chewing, swallowing, and aesthetics. The nasolabial flap is a skin-muscle flap based on the vascular pedicle of the face, offering advantages in terms of color, robustness, flexibility, and discreet scarring at the donor site. Objectives: To evaluate the technique of using nasolabial flaps for reconstructing defects at Cho Ray Hospital from January 2020 to October 2023. Patients and methods: A prospective interventional clinical study without a control group. The study involves 32 cases using nasolabial flaps to reconstruct oral cavity defects in groups I and II. Results: The size of the nasolabial flaps: width 2.7±0.25cm, length 5.8±0.3cm, thickness 1±0.1cm, pedicle: facial artery and vein(32/32), pedicle length: 13.5±0.4cm. Oral cavity defects (according to LIU): Group I (13/32), Group II (19/32), no discontinuity of mandible. Postoperatively, all flaps survived, and the donor sites healed well. After 3 months, the recipient sites healed, oral cavity functions were normal, and the donor sites healed well. Complications: 7/32 cases had grade III-IV mandibular branch nerve paralysis, recovering after 6 – 8 months; 5 cases had grade III facial paralysis and 2 cases had grade IV facial paralysis. Conclusions: The nasolabial flap, with its long vascular pedicle, is fairly stable and has a high survival rate, making it a good option for reconstructing medium-sized defects in the oral cavity.