Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá sự tuân thủ quy trình sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật tại hai khoa sọ mặt & tạo hình và chỉnh hình, Bệnh viện Nhi trung ương

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá sự tuân thủ quy trình sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật tại hai khoa sọ mặt & tạo hình và chỉnh hình, Bệnh viện Nhi trung ương
Tác giả
Đỗ Thùy Anh, Phạm Thu Hà, Nguyễn Thị Hằng, Đặng Hoàng Thơm, Nguyễn Vũ Hoàng, Trịnh Xuân Long
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
54-60
ISSN
1859-3860
Nguồn
Tóm tắt

Khảo sát và đánh giá tỷ lệ tuân thủ việc sử dụng kháng sinh dự phòng trước và sau can thiệp tại khoa Sọ mặt và Tạo hình và khoa Chỉnh hình, Bệnh viện Nhi Trung ương thông qua các hoạt động của Chương trình quản lý sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp, đánh giá trước-sau, không có nhóm chứng, thu thập dữ liệu hồi cứu trên 129 bệnh nhân. Kết quả: 100% phẫu thuật được sử dụng kháng sinh dự phòng trước khi rạch da trong khoảng thời gian khuyến cáo. Tỷ lệ chỉ định kháng sinh dự phòng phù hợp với khuyến cáo tăng từ 77,2% lên 94,4%, tỷ lệ bệnh nhân được dùng liều chênh lệch nhỏ hơn 10% so với khuyến cáo tăng từ 54,4% lên 59,7% và tỷ lệ tuân thủ liệu trình điều trị kháng sinh giảm nhẹ từ 80,7% xuống 79,2% ở hai khoa sau can thiệp. Kết luận: Cần có các can thiệp sâu hơn để nâng cao chất lượng thực hành kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật tại hai khoa này

Abstract

Survey and assess the adherence rate to the use of antibiotic prophylaxis before and after intervention in the Department of Craniofacial and Plastic Surgery and the Department of Pediatric Orthopedics Surgery, Vietnam National Children’s Hospital through activities of the Antimicrobial Stewardship Program. Methods: An interventional study, evaluating before and after, without a controlled group and performing a retrospective sample collection method on 129 patients. Results: 100% of surgical operations were carried out with prophylactic antibiotics prior to the skin incision within the recommended time period, the rate of appropriate indications for prophylactic antibiotics in accordance with the guidelines increased from 77.2% to 94.4%, the proportion of patients experienced dosing differs less than 10% compared to the guidance increased from 54,4% to 59,7% and the adherence rate in the duration of antibiotic prophylaxis use decreased from 80.7% to 79.2% in both departments after intervention. Conclusion: Significant interferences are required in order to enhance the quality of antibiotic prophylaxis practice in these two clinical wards.