Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Đánh giá suy yếu và các yếu tố tiên đoán tử vong ở bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não cấp

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Đánh giá suy yếu và các yếu tố tiên đoán tử vong ở bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não cấp
Tác giả
Ngô Thị Kim Trinh; Trần Thị Kim Giàu; Lê Thị Cẩm Linh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
80
Trang bắt đầu
5-12
ISSN
2354-1024
Tóm tắt

Suy yếu làm tăng tính dễ bị tổn thương với bệnh tật, dự hậu chức năng kém, tỷ lệ nhập viện và tử vong cao hơn trong nhiều bệnh nội và ngoại khoa cấp tính, nhưng ảnh hưởng của nó trên dự hậu của bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não vẫn chưa được nghiên cứu rõ ở Việt Nam. Đề tài này nhằm xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm suy yếu lâm sàng Canadavà mối liên quan giữa suy yếu với tử vong tại thời điểm 1 năm trên những bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang và theo dõi dọc trên tất cả bệnh nhân ≥ 60 tuổi được chẩn đoán nhồi máu não cấp nhập viện và điều trị nội trú tại khoa Bệnh lý mạch máu não của bệnh viện Nhân Dân 115, Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 06 năm 2020 đến tháng 03 năm 2021. Kết quả: Tổng cộng có 641 bệnh nhân nhồi máu não cấp đã được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 70,9 ± 8,2 (tuổi), 43,8% là nữ và tỷ lệ suy yếu trong dân số nghiên cứu là 26,4%. Những người tham gia nghiên cứu bị suy yếu có tuổi lớn hơn người không suy yếu (78,7 ± 7,6 so với 68,1 ± 6,4, p < 0,001). Tăng huyết áp là bệnh đồng mắc phổ biến nhất (86%), sau đó là rối loạn lipid máu (68,3%) và đái tháo đường (25,4%). 1/5 số người tham gia nghiên cứu có tiền sử đột quỵ và 11,2% bị rung nhĩ. Tại thời điểm 12 tháng theo dõi, 12,3% những người tham gia nghiên cứu đã tử vong và tử vong do mọi nguyên nhân tại 12 tháng cao hơn có ý nghĩa ở nhóm suy yếu so với nhóm không suy yếu (30,8% so với 5,7%, p < 0,001). Phân tích đa biến cho thấy suy yếu là yếu tố nguy cơ độc lập tiên đoán tử vong tại thời điểm 12 tháng (OR = 4,68, KTC 95% 2,27 - 9,66, p < 0,001). Ngoài suy yếu, tuổi (OR = 1,05, KTC 95% 1,01 - 1,10, p = 0,027 và NIHSS ≥ 15 (OR = 19,83, KTC 95% 10,46 - 37,60, p < 0,001) cũng là yếu tố nguy cơ độc lập tiên đoán tử vong. Kết luận: Tỷ lệ suy yếu chiếm khoảng ¼ và là yếu tố nguy cơ độc lập tiên đoán tử vong tại thời điểm 12 tháng trên bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não cấp. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần sàng lọc sớm tình trạng suy yếu ở bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não cấpkhi nhập viện. Cần có thêm nhiều nghiên cứu về can thiệp cải thiện tình trạng suy yếu nhằm giảm tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân cao tuổi nhồi máu não cấp.

Abstract

Frailty increases vulnerability to disease, poor functional outcomes, hospitalization and mortality in patients with acute illnessesoremergency surgery. However, the effect of frailty on outcomes of older patients with acute ischemic stroke has not been well studied in Vietnam. This studyaims to determine the prevalence of frailty defined by the Canadian Clinical Frailty Scale and the association between frailty and mortality at 1 year in older patients with acute ischemic stroke. Methods: A descriptive, cross - sectional and longitudinal study on all patients ≥ 60 years old diagnosed with acute ischemic stroke admitted to hospital and treated as inpatient at the Department of Cerebrovascular Diseases of 115 People’s Hospital, Ho Chi Minh City from June 2020 to March 2021. Results: A total of 641 patients with acute ischemic stroke were included in the study. The mean age of the study population was 70.9 ± 8.2 (years), 43.8% were female, and the prevalence of frailty in the study population was 26.4%. The frail participants were older than the non - frail (mean age 78.7 ± 7.6 vs 68.1 ± 6.4, p < 0.001). Hypertension was the most common comorbidity (86%), followed by dyslipidemia (68.3%), and diabetes (25.4%). One - fifth of the study participants had a history of prior stroke and 11.2% had atrial fibrillation. At 12 months of follow - up, 12.3% of study participants died, and all - cause mortality at 12 months was significantly higher in the frail group compared with the non - frail group (30.8% vs 5.7%, p < 0.001). Multivariate analysis showed that frailty was an independent risk factor for mortality at 12 months (adjusted OR = 4.68, 95%CI 2.27 - 9.66, p < 0.001). In addition to frailty, age (adjusted OR = 1.05, 95%CI 1.01 - 1.10, p = 0.027 and NIHSS ≥ 15 (adjusted OR = 19.83, 95%CI 10.46 - 37.60, p < 0.001) were also independent risk factors for mortality. Conclusion: Frailtywas present in a quarter of the participants and was an independent predicting factor for all - cause mortality at 12 months in olderpatients with acute ischemic stroke. The study findings suggest early screening for frailty in older patients with acute ischemic stroke. Further studies are needed to examine the role of interventions on frailty to reduce mortality in older patients with acute ischemic stroke.