Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trên bệnh nhân u nguyên bào thần kinh nguy cơ cao tại Bệnh viện Nhi Đồng 2

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trên bệnh nhân u nguyên bào thần kinh nguy cơ cao tại Bệnh viện Nhi Đồng 2
Tác giả
Phan Thị Thu Trang; Hồ Trần Phương Thảo; Nguyễn Đình Văn
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
CD2
Trang bắt đầu
113-119
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Điều trị đa mô thức kèm tự ghép tế bào gốc tạo máu (TGTBGTM) giúp cải thiện tiên lượng u nguyên bào thần kinh (UNBTK) nhóm nguy cơ cao. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả, khó khăn bước đầu TGTBGTM tại Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu 10 ca UNBTK được TGTBGTM từ 12/2020 - 5/2024. Kết quả: TGTBGTM tại đơn vị ghép 2 phòng, áp lực dương, có lọc khí liên tục, 4/8 điều dưỡng đào tạo ghép và 2 bác sĩ ghép. Tuổi trung vị bệnh nhân là 4,6 tuổi (2,4 -12,1);10% bệnh nhân có hóa trị liệu tăng cường sau hóa trị liệu chuẩn hướng ghép để đạt lui bệnh hoàn toàn trước thu thập TBG và ghép; 60% phải huy động TBG với Plexifor. Không có độc tính nặng trong điều kiện hóa. Biến chứng: 100% giảm bạch cầu hạt và tiểu cầu độ IV; 100% viêm niêm mạc miệng, 20% viêm phổi nặng, 10% có thuyên tắc mạch máu nhỏ ở gan. Ngày mọc bạch cầu là 8,3 ± 0,55 ngày; ngày mọc tiểu cầu 13,2 ±4,3 ngày. Thời gian theo dõi trung bình là 12 tháng (1-42 tháng), 10/10 ca đạt lui bệnh. 3 ca tử vong sau tái phát liên quan xạ trị trễ và do bệnh. Kết luận: TGTBGTM UNBTK vẫn có những biến chứng đáng ghi nhận nhưng khả thi tại trung tâm ung bướu BV nhi.

Abstract

With the implement of myeloablative chemotherapy and autologous stem cell transplant, the long-term survival of children assigned to the high –risk neuroblastoma has been remarkably improved. Objectives: an initial evaluation of disadvantages and effectiveness of autologous stem cell transplantation on high risk neuroblastoma patients in Children’s Hospital 2. Methods: We report on a retrospective case series of 10 high risk pediatrics neuroblastoma patients with autologous stem cell rescue from December 2020 to May 2024 and compare with data in literature. Result: Transplantation was performed by a team (4 transplant nurses, 4 pediatric nurses and 2 doctors) in an isolated 2 beds-room with a positive pressure and continuous ventilation. The mean age was 4,6 yrs (2,4 – 12,1), the male/female ratio was 3/2. All patients achieved complete response before stem cells collection and transplantation, 60% of patients used Plexifor in stem cell mobilization. After transplant, 100% of patients had neutropenia and mucositis; 10% of patients had veno occlusive disease and 20% of patients had severe respiratory failure. Time to neutrophil engraftment was 8,3 ± 0,55 days and platelet was 13,2 ± 4,3 days. 70% of patients achieved prolong term reponse in a period of median follow up 12 months (1-42 months). Nevertheless, a patient died after replased related to radiation delay in Covid qualification. Conclusion: Depite a considerable risk of complications, our results illustrate a positive outcome, which can lead to a prospective approach for improving survival among childhood cancer in developing countries.