Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu lực phác đồ Cloroquin trong điều trị sốt rét Plasmodium Vivax tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (2018-2020)

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu lực phác đồ Cloroquin trong điều trị sốt rét Plasmodium Vivax tại huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai (2018-2020)
Tác giả
Lý Chanh Ty; Hoàng Đình Cảnh; Trần Thanh Dương; Triệu Nguyên Trung
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CĐKST
Trang bắt đầu
50-58
ISSN
2354-0613
Tóm tắt

Với dữ liệu dịch tễ học tại vùng sốt rét lưu hành của huyện Krông Pa gần đây chỉ ra tỷ lệ Plasmodium vivax chiếm ưu thế hơn hoặc bằng so với P. falciparum và dữ liệu hiệu lực đáp ứng thuốc của loài P. vivax còn hạn hữu. Đối tượng và phương pháp: Một thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên, không đối chứng được tiến hành nhằm đánh giá hiệu lực và tính dung nạp thuốc chloroquine (CQ) trong điều trị P. vivax. Tổng số 90 bệnh nhân nhiễm P.vivax được điều trị CQ và theo trong 42 ngày theo đề cương của WHO (2009). Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (98,9%), thất bại lâm sàng muộn (1,1%). Tỷ lệ bệnh nhân còn thể vô tính P. vivax sau 24; 48 và 72 giờ lần lượt 91,1%, 11,1% và 0%; mật độ thể vô tính P. vivax trung bình ngày D0 là 16.397/μL, sau điều trị D1 giảm còn 3.293/μL, D2 còn 110,5/μL, D3 là 0/μL; Thời gian làm sạch KST va cắt sốt trung bình lần lượt là 36 giờ và 24 giờ. Thời gian làm sạch 50% dung khối P. vivax là 3,50 giờ (<5,2 giờ). Một số biến cố bất lợi xảy ra khi uống CQ như đau đầu, chóng mặt (10%), đau bụng, buồn nôn, chán ăn (2,2%), ban đỏ da, ngứa (1,1%), rụng tóc (1,1%). Kết luận: Thuốc ưu tiên chloroquine vẫn còn là liệu pháp thuốc sốt rét quan trọng trong điều trị P. vivax.

Abstract

In Krong Pa district’s malaria endmic zone with recent epidemiology data have shown that Plasmodium vivax largely predominates over or equal to P. falciparum, and limited antimalarial drug response of P. vivax malaria data. Subjects and methods: An non-randomized controlled clinial trial was conducted to evaluate the clinical efficacy and tolerance of chloroquine to treat P. vivax malaria. Total of 90 P. vivax malaria cases were enrolled in this trial and 42 days followed-up as per WHO protocol (2009). Result: Showed that proportion of adequate clinial and parasitological response (98.9%), late clinical treatment (1,1%), positive asexual P. vivax parasitemia after 24, 48 and 72 hours were 91.1%, 11.1% and 0%, respectively; average asexual P. vivax density on D0 was 16,397/μL, since first CQ dose administration, on day D1 (3.293/μL), D2 (110,5/μL), and D3 (0/μL). The mean parasite clearance time and fever clearance time were 36 and 24 hours, respectively, mean time for parasite biomass 50% clearance was 3.50 hours (<5.2 hours as per protocol). Several adverse events including of headache, dizziness (10%), abdomen discomfort, nausea, loss of appetite (2.2%), skin rask, itch (1.1%), alopecia (1.1%). Conclusion: These findings suggest that the first-line chloroquine may still have an important role to play in antimalarial therapy for P. vivax malaria.