Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả của khởi phát chuyển dạ bằng ống thông foley đặt ở kênh cổ tử cung ở thai trên 40 tuần tại Bệnh viện Từ Dũ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả của khởi phát chuyển dạ bằng ống thông foley đặt ở kênh cổ tử cung ở thai trên 40 tuần tại Bệnh viện Từ Dũ
Tác giả
Nguyễn Phượng Trân; Võ Minh Tuấn; Nguyễn Xuân Trang
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
39-44
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Trong các phương pháp khởi phát chuyển dạ, đặt ống thông Foley ở kênh cổ tử cung là một phương pháp đơn giản, chi phí thấp, được áp dụng phổ biến tại các bệnh viện lớn ở Việt Nam. Việc lựa chọn thời điểm chấm dứt thai kỳ phù hợp vừa cho hiệu quả thành công cao, vừa hạn chế được tử suất và bệnh suất cho mẹ và thai nhi ngày càng được quan tâm [7]. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ khởi phát chuyển dạ thành công của ống thông Foley đặt kênh cổ tử cung ở thai phụ trên 40 tuần chưa vào chuyển dạ tại Bệnh viện Từ Dũ. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả loạt ca tiến cứu trên 385 sản phụ tuổi thai trên 40 tuần chưa vào chuyển dạ tại Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 11/2020 đến tháng 4/2021. Kết quả: Tỉ lệ khởi phát chuyển dạ thành công bằng thông Foley đặt ở kênh cổ tử cung là 83,11% [95%CI: 79,35-86,87]. Yếu tố thông Foley tự rớt/ rút liên quan đến sự thành công của khởi phát chuyển dạ PR=0,51 [95%CI: 0,29-0,91]. Tỉ lệ sinh ngả âm đạo sau khởi phát chuyển dạ là 44,94% với các yếu tố liên quan là yếu tố tiền thai, yếu tố tiền căn mổ lấy thai và yếu tố kết quả khởi phát chuyển dạ. Kết luận: Tỉ lệ khởi phát chuyển thành công bằng ống thông Foley đặt ở kênh cổ tử cung là 83,11%. Đây là phương pháp khởi phát chuyển dạ cho hiệu quả thành công cao, giúp tăng khả năng sinh ngả âm đạo và tỉ lệ biến chứng thấp, không nguy hiểm, có thể theo dõi và can thiệp kịp thời.