Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả của kỹ thuật khí dung sóng cao tần trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mức độ trung bình

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả của kỹ thuật khí dung sóng cao tần trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mức độ trung bình
Tác giả
Trần Văn Tân; Đỗ Ngọc Sơn
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
297-302
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá hiệu quả kỹ thuật khí dung sóng cao tần (IPV) trong điều trị bệnh nhân đợt cấp COPD mức độ trung bình. Phương Pháp: Nghiên cứu tiến cứu can thiệp trên 60 bệnh nhân đợt cấp COPD mức độ trung bình theo tiêu chuẩn Anthonisen 1987, vào viện tại trung tâm Cấp cứu A9 – Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021, các bệnh nhân tham gia nghiên cứu được chia thành hai nhóm, 30 bệnh nhân nhóm chứng và 30 bệnh nhân nhóm can thiệp IPV. Các thông số theo dõi chính như: Tuổi, giới, các chỉ số lâm sàng: mạch, nhịp thở, Sp02 tại các thời điểm nhập viện (T0), sau khí dung 60 phút (T1), 6h (T2), 12h (T3), 24h(T4), 48h(T5), 72h(T6); các chỉ số khí máu: pH, PaCO2, PaO2, HCO3-, theo dõi tại các thời điểm T0, T2, T4, T5 và T6. Bệnh nhân được đánh giá thành công khi không phải thở máy hỗ trợ. Kết quả: Trong 60 bệnh nhân nghiên cứu (tuổi trung bình 69,83±9,90 tuổi; 11,7% nữ giới) cho kết quả: Có 6 (20%) bệnh nhân trong nhóm chứng phải chuyển thở không xâm nhập, trong khí đó ở nhóm can thiệp có 1 (3,3%) bệnh nhân trong nhóm phải chuyển thở không xâm nhập (p < 0,05). Thời gian nằm viện của nhóm chứng là 8,00 ± 2,95 ngày, của nhóm can thiệp là 6,73 ± 2,99 ngày (p=0,105). Có 63,3% bệnh nhân đánh giá IPV ở mức độ dễ chịu (mức độ I), 26,7% bệnh nhân đáng giá ở mức độ khó chịu nhẹ (mức độ II), không có bệnh nhân nào khó chịu tới mức phải dừng khí dung bằng IPV. Kết luận: IPV là một kỹ thuật an toàn và có thể ngăn chặn tình trạng xấu đi của đợt cấp trong điều trị đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính mức độ trung bình, giảm tỷ lệ bệnh nhân chuyển thở máy không xâm nhập.

Abstract

Evaluate the effectiveness of intrapulmonary percussive ventilation (IPV) in the treatment of mild to moderate exacerbations of COPD patients. Methods: Prospective interventional study on 60 patients with acute exacerbation of COPD according to Anthonisen 1987, admitted to the Center for Emergency Medicine of Bach Mai Hospital f-rom July 2020 to July 2021, of which 30 were assigned to standard treatment, and 30 to IPV. The main variables such as age, sex, vital signs parameters: heart rate, respiratory rate, saturation of peripheral oxygen (SpO2) at the time of admission (T0), 1 hour (T1), 6 hours (T2), 12 hours hours(T3), 24 hours (T4), 48 hours (T5), 72h hours (T6) after IPV ; arterial blood gas indices such as pH, PaCO2, PaO2, HCO3- at the time of T0, T2, T4, T5, T6. The therapy was considered successful when non-invasive ventilation was avoided. Results: The study on 60 patients (mean age 69.83±9.90 years; 11.7% women), there were 6 (20%) patients in standard group who required NIV versus 1 (3.3%) patient in IPV group required NIV (p<0.05). The hospital stay of control group was 8.00 ± 2.95 days, of IPV group was 6.73 ± 2.99 days (p=0.105). There were 63.3% patients rated IPV as comfortable (Level I), 26.7% rated as mildly uncomfortable, however, there was no one withhold IPV. Conclusions: IPV is a safe technique and may prevent further deterioration in patients with acute axacerbations of COPD, reducing the need for NIV.