Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả điều trị và kinh tế y tế của phẫu thuật kích thích não sâu ở bệnh nhân Parkinson tại Việt Nam

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả điều trị và kinh tế y tế của phẫu thuật kích thích não sâu ở bệnh nhân Parkinson tại Việt Nam
Tác giả
Trần Ngọc Tài; Võ Ngọc Chung Khang; Thái Thanh Trúc; Đặng Thị Huyền Thương; Hà Ngọc Lê Uyên; Phạm Anh Tuấn; Nguyễn Anh Diễm Thúy; Thái Hoài Nam
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
325-329
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Kích thích não sâu (KTNS) đã được chứng minh là có hiệu quả lâm sàng và tiết kiệm chi phí trong điều trị bệnh Parkinson giai đoạn tiến triển. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị này này ở bệnh nhân bệnh Parkinson giai đoạn tiến triển ở Việt Nam vẫn chưa được biết đến. Phương pháp: Đây là một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu. Hai nhóm bệnh Parkinson giai đoạn tiến triển được điều trị phẫu thuật KTNS và được điều trị nội khoa (ĐTNK) tối ưu được chọn vào nghiên cứu. Người tham gia được đánh giá thang MDS-UPDRS khi “tắt máy”/ “tắt thuốc” và khi “bật máy/tắt thuốc” đối với nhóm KTNS và khi “tắt thuốc” đối với nhóm ĐTNK. Bảng câu hỏi chất lượng sống của EQ-5D-5L, liều tương đương levodopa (LED) và chi phí điều trị (biến chứng phẫu thuật, thay pin, tái khám, chăm sóc sức khỏe liên quan, thuốc men và chi phí gián tiếp) cũng được ghi nhận ở hai nhóm. Các lợi ích về sức khỏe sau đó được đo lường bằng QALY (số năm sống được điều chỉnh theo chất lượng) hoặc theo điểm của các chỉ số lâm sàng. Tất cả dữ liệu được ghi lại ở lần khám ban đầu, sau 3 tháng và 6 tháng. Phương trình ước tính tổng quát (GEE) đã được sử dụng để ước tính hiệu quả giữa hai liệu pháp. Kết quả: Tổng cộng có 73 người tham gia, trong đó có 36 người thuộc nhóm KTNS và 37 người thuộc nhóm ĐTNK. Độ tuổi trung bình tại thời điểm nghiên cứu là 63,1 ± 9,6 ở nhóm KTNS so với 58,2 ± 8,7 ở nhóm ĐTNK (p=0,027). Thời gian mắc bệnh ở nhóm KTNS là 14,0 ± 5,2 năm so với 9,7 ± 5,4 năm ở nhóm ĐTNK (p=0,001). Trong phân tích hiệu quả lâm sàng, MDS-UPDRS-III là 42,2 ± 14,2 ở nhóm KTNS khi “bật máy/tắt thuốc” so với 64,6 ± 18,2 ở nhóm KTNS khi “tắt máy/tắt thuốc” (p<0,001) và so với 41,4 ± 11,0 ở nhóm ĐTNK khi “tắt thuốc” (p=0,785). LED giảm đáng kể ở nhóm KTNS so với nhóm ĐTNK (514,6 ± 322,7 so với 1218,9 ± 402,3, p<0,01). Trong phân tích hiệu quả chi phí, so với nhóm ĐTNK, nhóm KTNS có hiệu quả chi phí tốt hơn trong tương quan với MDS-UPDRS-IV với tỉ số hiệu quả chi phí tăng thêm tuần tự là 1,45, 1,47, 1,56 điểm ở mỗi lần thăm khám 3 tháng (p< 0,05). Kết luận: KTNS cải thiện đáng kể các triệu chứng vận động và KTNS có thể có hiệu quả về mặt chi phí ở bệnh nhân Parkinson giai đoạn tiến triển ở Việt Nam.

Abstract

Deep brain stimulation (DBS) has been shown to be clinically effective and cost – effective in the treatment of advanced Parkinson’s disease (APD). However, this effectiveness in Vietnamese advanced Parkinson's patients haven’t been known. Methods: This was a prospective cohort study. The DBS-APD group and the best medical therapy (BMT)-APD group candidating for DBS were selected. All participants were evaluated MDS-UPDRS OFF-DBS/OFF-Med and ON-DBS/OFF-Med in DBS-APD group and OFF-Med in BMT-APD group, QoL Questionnaire of EQ-5D-5L, levodopa equivalent dose (LED) and costs of treaments (surgical complication, battery replacement, follow-up visits, allied health care, medications, and indirect costs). The health benefits were subsequently measured in QALYs (quality-adjusted life years) or in points of clinical indices. All data were recorded at baseline, 3-month and 6-month visit. Generalized Estimating Equation (GEE) was used to estimate effectiveness between two therapies. Results: A total of 73 participants were included with 36 for DBS-APD group and 37 for BMT-APD group. Average age at study time was 63.1 ± 9.6 in DBS-APD group versus 58.2 ± 8.7 in BMT-APD group (p=.027). The duration of disease was 14.0 ± 5.2 years in DBS-APD group versus 9.7 ± 5,4 years in BMT-APD group (p=.001). In clinically effective analysis, MDS-UPDRS-III was 42.2 ± 14.2 in DBS-APD group with ON-DBS and OFF-Medication versus 64.6 ± 18.2 in DBS-APD group with OFF-DBS and OFF-Medication (p,<0.001) and versus 41.4 ± 11.0 in BMT-APD group with OFF-Medication (p=.785). LED reduced significantly in DBS-APD group versus BMT-APD group (514.6 ± 322.7 vs 1218.9 ± 402.3, p<0.01). In cost-effectiveness analysis, compare to BMT-APD group, DBS-APD group was more cost-effective in correlation with MDS-UPDRS-IV with the sequential incremental utility 1.45, 1.47, 1.56 points at each 3-month visit (p<0.05). Conclusions: DBS improved significantly in motor symptoms and DBS could be cost-effective in Vietnamese advanced PD.