Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả giảm đau của gây tê đám rối thần kinh cơ ngực dưới hướng dẫn của siêu âm bằng ropivacaine kết hợp với dexamethasone trong phẫu thuật nâng vú

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả giảm đau của gây tê đám rối thần kinh cơ ngực dưới hướng dẫn của siêu âm bằng ropivacaine kết hợp với dexamethasone trong phẫu thuật nâng vú
Tác giả
Nguyễn Hữu Lành; Lê Trung Kiên; Lê Hữu Điền
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
DB2
Trang bắt đầu
133-139
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đau do phẫu thuật thẩm mỹ ngực được xếp vào loại đau vừa đến nặng, tuy vậy nó vẫn còn bị xem nhẹ. Hơn một nửa số người bệnh vẫn phải chịu đau sau phẫu thuật và nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và sự phục hồi của người bệnh. Kiểm soát đau phải là mục tiêu chính của người gây mê trong phẫu thuật vú. Công nghệ hiện đại đã làm ra máy siêu âm cầm tay nhỏ gọn nên gây tê vùng dưới siêu âm đã được ứng dụng và đóng vai trò quan trọng trong phác đồ kiểm soát đau sau mổ. Đánh giá hiệu quả giảm đau của phương pháp gây tê thần kinh cơ ngực (Pecs block) dưới siêu âm trong và sau phẫu thuật nâng vú. Trong nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, có nhóm chứng, mù đơn này. Chúng tôi thực hiện trên 60 trường hợp phẫu thuật nâng vú dưới gây mê nội khí quản được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm áp dụng Pecs block (nhóm I) và nhóm chứng (nhóm II). Sau khi khởi mê, nhóm I được thực hiện Pecs block hai bên bằng hỗn hợp ropivacain 0,2% 30ml với dexamethasone 4mg cho mỗi bên ngực, nhóm II thực hiện Pecs bằng natriclorid 0,9% 30ml mỗi bên ngực. Giảm đau sau mổ thường qui bằng truyền tĩnh mạch paracetamol 1g mỗi 8 giờ và IV-PCA fentanyl 20mcg/lần người bệnh tự kiểm soát. Biến số chính trong nghiên cứu là tổng liều fentanyl trong 24 sau mổ và điểm VAS khi nghỉ và khi cử động ở các thời điểm 1,2,3,6,9,12,15,18,21,24 giờ sau mổ. Biến số nghiên cứu phụ là thời điểm yêu cầu giải cứu giảm đau lần đầu, các biến chứng của Pecs và tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, ngứa, an thần cũng được ghi nhận. Kết quả: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tổng lượng tiêu thụ fentanyl trong 24 giờ sau phẫu thuật, nhóm có Pecs là: 278.33μg, nhóm không Pecs là: 375.33μg, giảm 97μg (p < 0,05). Điểm đau sau mổ lúc nghỉ và lúc vận động thấp hơn ở nhóm Pecs so với nhóm chứng. Không ghi nhận trường hợp nào xảy ra biến chứng do Pecs block. Tỷ lệ tác dụng phụ (buồn nôn, nôn, ngứa và rét run) giảm khác biệt có ý nghĩa ở nhóm Pecs