Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật đặt mesh 4 nhánh trong điều trị sa bàng quang ở phụ nữ tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật đặt mesh 4 nhánh trong điều trị sa bàng quang ở phụ nữ tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả
Nguyễn Văn Ân; Phạm Huy Vũ; Đoàn Vương Kiệt; Lê Trương Tuấn Đạt
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
CD1
Trang bắt đầu
3-9
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phẫu thuật đặt mesh 4 nhánh trong điều trị sa bàng quang (BQ) ở phụ nữ tại Bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu báo cáo loạt trường hợp; trên những bệnh nhân (BN) nữ mắc bệnh lý sa bàng quang; đã được phẫu thuật ngã âm đạo (ÂĐ) đặt mesh 4 nhánh tại khoa Niệu học chức năng của BV ĐHYD TP.HCM từ tháng 1/2019 đến tháng 5/2023. Chỉ định mổ là sa BQ mức độ nặng. Theo dõi hiệu quả điều trị, tai biến trong mổ và biến chứng sau mổ tại các mốc thời gian: ngay sau mổ, 6 tuần, 3 tháng, 6 tháng và hằng năm. Kết quả: Trong khoảng thời gian nghiên cứu, chúng tôi thu thập được 37 BN nữ mắc bệnh lý sa BQ, có chỉ định phẫu thuật và đồng ý can thiệp bằng phương pháp đặt mesh 4 nhánh ngã ÂĐ. Các đặc điểm được ghi nhận bao gồm: tuổi trung bình là 62,1 tuổi ± 7,36 (45 – 78); Thời gian mổ trung bình là 54,6 phút ± 13,2 (30 – 85); Thời gian nằm viện trung bình là 2,6 ngày (1 – 3); Thời gian theo dõi trung bình là 22,9 tháng ± 16,9 (2 – 51); tỉ lệ thành công chung đạt 100%. Tai biến trong mổ không ghi nhận. Kết luận: Phẫu thuật ngả ÂĐ đặt mesh 4 nhánh điều trị sa BQ vẫn còn được rất nhiều tác giả trên thế giới tin tưởng vì tính an toàn và hiệu quả. Nghiên cứu này của chúng tôi cũng đã gặt hái được điều đó với tỉ lệ thành công rất cao mà không gặp biến chứng nặng nề, nguy hiểm.