Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hình ảnh cộng hưởng từ của bệnh thoát vị màng não tủy vùng cùng cụt ở trẻ em

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hình ảnh cộng hưởng từ của bệnh thoát vị màng não tủy vùng cùng cụt ở trẻ em
Tác giả
Đỗ Thanh Hương; Moeun My; Cao Vũ Hùng; Lê Nam Thắng; Lê Đình Công
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
254-258
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả hình ảnh cộng hưởng từ (CHT) của bệnh thoát vị màng não tuỷ vùng cùng cụt ở trẻ em. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, gồm 32 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị bệnh thoát vị màng não tuỷ vùng cùng cụt tại Trung tâm thần kinh - Bệnh viện Nhi Trung Ương, trong thời gian 1 năm (từ ngày 01/07/2020 đến 30/06/2021). Kết quả: 32 bệnh nhân thỏa mãn các tiêu chuẩn lựa chọn. Tuổi trung bình khi nhập viện là 10,4 ± 14,2 tháng, trẻ nam mắc bệnh nhiều hơn trẻ nữ (tỷ lệ nam/nữ là 1,46/1). CHT cột sống vùng cùng cụt cho thấy khối thoát vị ở vùng xương cùng chiếm 59,4%, vùng xương cụt chiếm 40,6%. Chiều dài trung bình của khối thoát vị là 2,2 ± 1,0cm. Chiều rộng trung bình của khối thoát vị là 2,3 ± 1,4cm. Thành phần của khối thoát vị: 100% chứa dịch, 87,5% chứa tuỷ, 46,9% chứa mỡ, 40,6% chứa rễ thần kinh và 37,5% chứa các dây xơ. Phân bố các thể TVMNT: 46,9% thoát vị mỡ - tủy - màng tủy; 40,6% thoát vị tủy - màng tủy và 12,5% thoát vị màng tủy. Hầu hết các bệnh nhân kèm tủy bám thấp với tỷ lệ 96,9%. Kết luận: CHT cột sống là phương pháp chẩn đoán hình ảnh có độ chính xác cao nhất trong chẩn đoán bệnh TVMNT cùng cụt ở trẻ em: xác định được vị trí, kích thước và thành phần của khối thoát vị, giúp cho tiên lượng bệnh và giúp bác sỹ phẫu thuật có kế hoạch điều trị tốt nhất.

Abstract

Describe magnetic resonance imaging (MRI) of sacral and coccyx myelomeningocele in children. Method: A cross-sectional descriptive study, including 32 patients diagnosed and treated for sacral and coccyx myelomeningocele at the Neurological Center - National Children's Hospital, during 1 year (from July 1, 2020 to June 30, 2021). Results: 32 patients with mean age at admission was 10.4 ± 14.2 months, more boys were infected than girls (the male/female ratio was 1.46/1). MRI of sacral and coccyx showed that the rate of herniated mass in the sacral region was 59.4%, and the coccyx region was 40.6%. The average length of the herniated mass was 2.2 ±1.0cm. The average width of the herniated mass was 2.3±1.4cm. The composition of the herniated mass: 100% contains fluid, 87.5% contains marrow, 46.9% contains fat, 40.6% contains nerve roots and 37.5% contains fibrous. Distribution of myelomeningocele type: 46.9% lipomyelomeningocele; 40.6% myelomeningocele and 12.5% meningocele. Conclusion: Spine MRI is the most accurate imaging method in diagnosing sacral and coccyx myelomeningocele in children: determining the location, size and composition of the herniated mass to help the doctors to have prognosis and the best plans for treatment.