Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Hội chứng chèn ép khoang bụng sau can thiệp nội mạch điều trị vỡ phình động mạch chủ bụng: Báo cáo trường hợp lâm sàng và tổng quan y văn

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Hội chứng chèn ép khoang bụng sau can thiệp nội mạch điều trị vỡ phình động mạch chủ bụng: Báo cáo trường hợp lâm sàng và tổng quan y văn
Tác giả
Bùi Đức An Vinh, Lê Quan Anh Tuấn, Vũ Hữu Thinh, Phạm Trần Việt Chương, Nguyễn Văn Thài Thanh, Nguyễn Hoài Nam, Nguyễn Hoàng Đinh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
39
Trang bắt đầu
7-17
ISSN
0866-7551
Tóm tắt

Báo cáo ca lâm sàng diều trị ACS thành công sau can thiệp BAAA tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh và kháo cứu y văn. Trường hợp lâm sàng: bệnh nhân nam 61 tuổi nhập viện vì đau bụng trái, kết quà CT scan chẩn đoán RAAA. Bệnh nhân dược chuyển viện và điều trị can thiệp nội mạch (rEVAR) cấp cứu. Sau can thiệp 30 phút bụng bệnh nhân căng chướng, tăng áp lực ổ bụng. Bệnh nhân dược chẩn đoán ACS và phâu thuật cap cứu giải áp khoang bụng. Sau phân thuật vết mổ được để hở và khâu che bằng túi nylon vô trùng. Ngày thứ 6 hậu phân, bệnh nhân dược chi dinh dóng bụng tạm thời, sữ dụng hệ thong hút áp lực âm (VAC). Ngày thứ 27 hậu plìâu, bệnh nhân có thể đóng hoàn toàn vết mổ thành bụng và xuất viện. Kết luận: Cần theo dôi áp lực trong khoang bụng sau phâu thuật mổ bụng giãi áp diều trị ACS. Khi áp lực trong khoang bụng còn cao, có thể chỉ định đóng cân cơ bụng tạm thời và điều trị VAC hỗ trợ cho đến khi có thể đóng bụng hoàn toàn.

Abstract

This is a case report o f successful ACS treatment following RAAA intervention at Ho Chi Minh University Hospital o f Medicine and Pharmacy with a literature review. Clinical case: A 61-year-old male patient was hospitalized for abdominal pain. Computed tomography angiography demonstrated RAAA. He underwent the emergency endovascular repair of ruptured aneurysms (rEVAR). At 30 minutes post-intervention, the patient's abdomen was distended following intraabdominal hypertension measured via bladder catheter. Within ACS diagnosing, emergency decompressive laparoscopy was performed. The abdominal wall was left open and covered with a sterile nylon cover. The fascial closure was performed on the sixth postoperative day with the support of vacuum-assisted wound closure (VAC) and mesh-mediated fascial traction. On the 27 th postoperative day, the wound could close completely, and the patient could be discharged successfully. Conclusion: A bladder pressure is required to monitor intraabdominal pressure postoperatively after decompressive laparotomy. Delayed fascial closure is appropriate with supporting VAC until total abdominal closure.