Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả can thiệp nội mạch điều trị hẹp mạch máu ngoại biên do xơ vữa tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đóng Nai

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả can thiệp nội mạch điều trị hẹp mạch máu ngoại biên do xơ vữa tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đóng Nai
Tác giả
Võ Tuấn Anh, Đặng Hà Hữu Phước
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
106
Trang bắt đầu
34-40
ISSN
1859-2848
Tóm tắt

Có 58 trường hợp được can thiệp nội mạch điểu trị bệnh mạch máu ngoại biên tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. Trong đó, hẹp hoặc tắc mạn tính động mạch đùi nông chiếm 60,3% các trường hợp, các trường hợp khác bao gồm hẹp động mạch dưới đòn (8,6%), hẹp dộng mạch chậu chung (15,6%), hẹp động mạch dưới gối (12,1%). Kết quả can thiệp bước đầu tốt, không có tai biên và biến chứng nặng xảy ra, tỷ lệ thông thương mạch máu sớm là 96,6%, lành mỏm cụt 96,6%, tỷ lệ đặt stent là 67,2%, 2 trường hợp chuyển mổ hở vì can thiệp thất bại. 2 trường hợp doạn chi đến 1/3 trên cẳng chân, 6 trường hợp đoạn chi đến khớp Lisíranc và 19 trường hợp cần cắt ngón. Không có trường hợp nào phải can thiệp lại trong giai đoạn ngắn hạn Kết luận: Kết quả can thiệp nội mạch điều trị hẹp mạch máu ngoại biên do xơ vữa tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai khá tốt, giúp cung cấp thêm lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật cao và hình thành điểu trị đội nhóm trong xử lý bệnh tim mạch, một xu hướng tất yếu trong tương lai.

Abstract

We report 58 cases of patients diagnosed with peripheral arterial disease who received endovascular intervention at Dong Nai General Hospital. Results: 58 patients with peripheral vascular disease was treated with endovascular approach at Dong Nai General Hospital. Stenosis or chronic occlusion of the superficial femoral artery accounts for 60.3% of cases, the rest are stenosis of the subclavian artery, common iliac arteries and below- the-knee lesions. The primary intervention results were good, there were no serious complications, the rate of early vascular patency was 96.6%, the wound healing rate was 96.6%, 67.2% patients were stented after balloon angioplasty. No reintervention was needed in these patients. Conclusion: The results of endovascular intervention for peripheral vascular disease at Dong Nai General Hospital are encouraging, this helps expanding the indications for intervention, including hybrid surgery and creating first steps in multidisciplinary treatment of cardiovascular disease, an new trend in the future.