Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả điều trị bệnh tim chuyển gốc-vách liên thất nguyên vẹn bằng phẫu thuật chuyển vị động mạch tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong giai đoạn 2010-2016

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả điều trị bệnh tim chuyển gốc-vách liên thất nguyên vẹn bằng phẫu thuật chuyển vị động mạch tại Bệnh viện Nhi Trung ương trong giai đoạn 2010-2016
Tác giả
Nguyễn Lý Thịnh Trường; Nguyễn Tuấn Mai
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
99-103
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Kết quả trung hạn phẫu thuật chuyển vị động mạch đối với các bệnh nhân mắc bệnh chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn và các yếu tố nguy cơ có liên quan tới tử vong sau phẫu thuật được đánh giá bởi nghiên cứu này.Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Trong thời gian từ tháng 4 năm 2010 đến tháng 12 năm 2016, tất cả các bệnh nhân chẩn đoán chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn được phẫu thuật chuyển vị động mạchtại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương được hồi cứu. Phân tích hồi quy đa biến tuyến tính được sử dụng nhằm đánh giá yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong sau phẫu thuật. Kết quả:Có tổng số 149 bệnh nhân liên tiếp phù hợp tiêu chuẩn được thu thập vào nghiên cứu. Tuổi phẫu thuật trung bình là 30,32±23,04ngày tuổi (3-163), cân nặng trung bình là 3,46 ±0,6 kg (2.1-6.0). 2 bệnh nhân được huấn luyện thất trái trước phẫu thuật do tình trạng tâm thất trái bé và mỏng.Thời gian cặp động mạch chủ trung bình là 113,47±28,61 phút, thời gian chạy máy 172,52±52,74phút. Có 3 bệnh nhân cần hỗ trợ ECMO sau phẫu thuật chuyển vị động mạch. Tử vong sớm sau phẫu thuật có 8 bệnh nhân (5.4%) và 3 bệnh nhân tử vong muộn (2%). Không cóbệnh nhân nào cần phải mổ lại do nguyên nhân tim mạch trong thời gian theo dõi trung bình là 22.88 ±17.48 tháng (0.5-84). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy các bệnh nhân có nhiễm trùng hô hấp sau phẫu thuật (OR=22.1) và các bệnh nhân có nhiễm khuẩn huyết sau phẫu thuật (OR=51.9) là các yếu tố nguy cơ tiên lượng tử vong đối với nhóm bệnh nhân chuyển gốc động mạch-lành vách liên thất. Không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm bệnh nhân sơ sinh và các bệnh nhân được phẫu thuật sau 1 tháng tuổi (p=0.484). Kết luận: Phẫu thuật chuyển vị động mạch điều trị cho các bệnh nhân chuyển gốc động mạch-vách liên thất nguyên vẹn tại Trung tâm Tim mạch-Bệnh viện Nhi Trung ương có kết quả rất tốt. Giảm tỷ lệ nhiễm trùng bệnh viện có thể giúp cải thiện hơn nữa tỷ lệ sống sót của bệnh nhân. Phẫu thuật chuyển vị động mạch thì đầu nên được cân nhắc và có thể thực hiện an toàn đối với từng trường hợp cụ thể, mặc dùphát hiện bệnh muộn.

Abstract

The mid-term outcomes of arterial switch operation (ASO) for children who have transposition of the great arteries-intact ventricular septum (TGA-IVS) and risk factors associated with mortalities after surgery were evaluated. Methods: From April 2010 to December 2016, all patients diagnosed with TGA-IVS, who underwent ASO at Heart Center-Vietnam National Children Hospital wereretrospectively studied. Multivariate logistic regression analysis was performed to identify the risk factors for hospital mortality. Results: A total of 149 patients were collected to this study. The operation mean age and mean weight was 30,32±23,04days (3-163), and 3,46 ±0,6 kg (2.1-6.0), respectively. There were 2 patients required left ventricular training before ASO with unprepared left ventricle. The mean aortic cross-clamp time and mean bypass time were 113,47±28,61 min, and 172,52± 52,74min, respectively. There were 3 patients need ECMO support after surgery. 8 patients (5.4%) died in hospital and 3 late death (2%). No reoperation appears during the meantime follow-up of 22.88 ±17.48months (0.5-84). Multivariate logistic regression analysis revealed that pneumonia (OR=22.1) and sepsis (OR=51.9) were the risk factors of hospital mortality for patients with TGA-IVS after ASO. There was no significant difference in mortality between group of neonates and group of late presentation more than 30 days old (p=0.484). Conclusions: Results of ASO for patients diagnosed with TGA-IVS at Heart Center-Vietnam National Children Hospital are safe. Primary ASO is a good option to be considered and can be safely performed with individual patientswho presented with late presentation.