Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả điều trị hóa chất bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4ac-4t liều dày bệnh ung thư vú tại bệnh viện đại học y hà nội

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả điều trị hóa chất bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4ac-4t liều dày bệnh ung thư vú tại bệnh viện đại học y hà nội
Tác giả
Đoàn Nguyệt Hằng , Trịnh Lê Huy
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
1
Trang bắt đầu
154-157
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân ung thư vú (UTV) được hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4AC-4T liều dày; đánh giá đáp ứng và tác dụng không mong muốn của nhóm bệnh nhân (BN) nghiên cứu trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu trên 42 BN UTV được hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật phác đồ 4AC-4T liều dày tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Kết quả: Đặc điểm nhóm nghiên cứu: Tuổi trung bình BN: 46,5 tuổi, phần lớn BN ở giai đoạn III (81%) trong khi 19% BN ở giai đoạn II, 92,9% BN có thể mô bệnh học là ung thư biểu mô thể ống xâm nhập, đa số BN có độ mô học III (50%). Đáp ứng: Sau điều trị hóa chất, tỉ lệ người bệnh đáp ứng hoàn toàn (ĐƯHT) trên lâm sàng tăng từ 11,9% sau 4 đợt hóa trị lên 38,1% sau 8 đợt hóa trị. Không có BN tiến triển lâm sàng sau điều trị 8 chu kỳ hóa chất. Cả 42 BN đều được phẫu thuật sau hóa trị. ĐƯHT trên mô bệnh học đạt 42,8%. Độc tính: BN trong nghiên cứu dung nạp khá tốt với phác đồ hóa chất. Thường gặp hạ bạch cầu độ 1,2 và hạ bạch cầu trung tính độ 2,3. Nôn, chán ăn, rụng tóc và độc tính thần kinh ngoại vi là những tác dụng không mong muốn thường gặp khi điều trị, tuy nhiên chỉ ở độ 1 và độ 2. Kết luận: Phác đồ 4AC-4T liều dày cho tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn về mô bệnh học cao, đồng thời độc tính ở mức độ chấp nhận được, do vậy có thể áp dụng được ở nước ta trong điều trị bổ trợ trước ung thư vú, đặc biệt trong giai đoạn không thể phẫu thuật được tại thời điểm chẩn đoán.

Abstract

Our study aims to describe the clinical and paraclinical characteristics of breast cancer patients and evaluate the treatment outcomes and toxicity of neoadjuvant dose dense 4AC- 4T regimen in this group. Patients and Methods: Retrospective and prospective, descriptive study on 42 patients with breast cancer, were treated with neoadjuvant dose dense 4AC-4T regimen at Hanoi Medical University Hospital. Results: The mean age was 46,5. The majority of them were in stage III (81%) while 19% patients were in stage II. 92,9% patients’s histology were invasive carcinoma of no special type (NST) and 50% was in grade III. After treatment, the complete clinical response rised from 11,9% (after 4 cycles of AC) to 38,1% (after 8 cycles of 4AC- 4T). No patient progressed during 8 cycles. All of our patients were moved to modified radical mastectomy after neoadjuvant chemotherapy. The pathological complete response (pCR) rate was 42,8%. Most adverse events were manageable and tolerable. The most common toxicity was neutropenia with grade 1,2. Non hematological toxicities such as vomiting, fatigue, alopecia and neurotoxity were also common and all of them were mild and moderate. Conclusion: Dose dense 4AC-4T regimen in neoadjuvant setting gives a high pCR rate with tolerable tocxicity, therefore this regimen can be widely used as neoadjuvant chemotherapy prior to surgery in our country, specilly with inoperable stage at initial diagnosis.