Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả điều trị u xơ cơ tử cung bằng cắt tử cung nội soi và đường âm đạo tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả điều trị u xơ cơ tử cung bằng cắt tử cung nội soi và đường âm đạo tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa
Tác giả
Nguyễn Anh Tuấn
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
03
Trang bắt đầu
101 - 106
ISSN
1859–3844
Tóm tắt

So sánh kết quả cắt tử cung nội soi (CTCNS) và cắt tử cung đường âm đạo (CTCĐAĐ) trong điều trị u xơ cơ tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh gồm 134 trường hợp có chỉ định cắt tử cung nội soi và 53 trường hợp có chỉ định cắt tử cung đường qua đường âm đạo từ tháng 1 năm 2021 đến hết tháng 5 năm 2022. Thời gian phẫu thuật trung bình ở nhóm CTCĐAĐ là 68,6 ± 17,3 (phút) ngắn hơn so với CTCNS là 80 ± 14,5 (phút). Trọng lượng tử cung sau mổ trong CTCNS 277 ± 59,5 (gr) nặng hơn so với CTCĐAĐ là 200,7 ± 58,9 (gr). Có mối tương quan tuyến tính thuận giữa thời gian phẫu thuật và trọng lượng tử cung sau mổ ở cả 2 phương pháp. Lượng máu mất (đánh giá qua sự sụt giảm Hb sau mổ 24h) trong CTCĐAĐ là 11,1 ± 2,3 (g/l) nhiều hơn so với CTCNS là 9,5 ± 2,9 (g/l). Mức độ đau (VAS) sau mổ ngày thứ nhất ở những bệnh nhân CTCĐAĐ cao hơn so với những bệnh nhân CTCNS. Phục hồi sau mổ ở những bệnh nhân CTCNS ngày thứ nhất tốt hơn so với CTCĐAĐ. Ba ca CTCNS có tổn thương hệ tiết niệu trong khi CTCĐAĐ không có ca tai biến tiết niệu , 2 ca CTCĐAĐ có tụ máu mỏm cắt. CTCNS cho thấy ưu thế hơn về nhiều mặt: tiến hành trên bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật ổ bụng, có tổn thương phần phụ kèm theo (u buồng trứng, viêm phần phụ), tiến hành trên các tử cung có trọng lượng và kích thước lớn, mức độ đau sau mổ ít hơn và hồi phục sau mổ tốt hơn. Tuy nhiên so với CTCĐAĐ thì thời gian thực hiện lâu hơn và dễ bị tổn thương hệ tiết niệu.

Abstract

Objectives: This study was conducted to compare laparoscopic hysterectomy with vaginal hysterectomy for treatment of uterine fibroids at Thanh Hoa Hospital of Obstetrics and Gynecology. Methods: A cross-sectional and comparative study includes 134 patients indicated laparoscopic hysterectomy (LH) and 53 patients indicated vaginal hysterectomy (VH) due to uterine fibroids from 1/2021 to 5/2022. Results: The mean time of operation in VH was 68.6 ± 17.3 (minutes) that is shorter than in LH (80 ± 14.5 minutes). Average weight of the uterus in LH was heavier than that in VH (277 ± 59.5 gr versus 200.7 ± 58.9 gr). There was a positive correlation between the time of operation and the weight of the uterus in both LH and VH. The amount of blood loss (estimated by decrease in Hemoglobin) in VH was 11.1 ± 2.3 (g/l) that was more than in LH (9.5 ± 2.9 g/l). Postoperative pain by VAS in the first day after VH was significantly higher than that after LH. Postoperative recovery in patients who underwent LH was better than patients who underwent VH. There were 3 cases in LH with urinary complications and 2 cases in VH had hematoma. Conclusions: Generally, LH was shown to be superior to VH due to its advantages such as: performing patients who had previous laparotomy, patients who had fibroids with adnexal pathologies (ovarian tumor, pelvic inflammatory disease), performing in large uterus, lower postoperative pain, shorter postoperative recovery time. However, LH had a longer operating time compared with VH. Urinary tract injuries in LH were more common than that in VH.