
Ung thư phổi là loại ung thư có tiên lượng xấu, điều trị còn nhiều khó khăn, tỷ lệ tử vong cao, sống thêm 5 năm chỉ khoảng 15%. Trong đó nhóm bệnh nhân giai đoạn III hạch N2 có thể phẫu thuật được chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ[1], [2]. Mặc dù vậy đây là nhóm bệnh nhân rất khó đưa ra liệu pháp điều trị rõ ràng mà cần phải có sự quyết định của 1 tiểu ban với sự tham gia của các bác sỹ phẫu thuật, tia xạ và hóa chất. Đánh giá kết quả điều trị của nhóm bệnh nhân này sẽ cung cấp các dữ liệu cần thiết cho việc lựa chọn bệnh nhân vào từng liệu pháp điều trị phù hợp đặc biệt là trên nhóm bệnh nhân có thể phẫu thuật được. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm 2 mục tiêu: mô tả một số đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả sống thêm không bệnh của nhóm bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn III (hạch N2) đã phẫu thuật tại bệnh viện K. Đối tượng, phương pháp: 64 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III hạch N2 đã được phẫu thuật tại Bệnh viện K từ tháng 1/2018 đến hết tháng 12/2021. Kết quả: Trong số 64 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III di căn hạch N2 sau phẫu thuật có 96,8% bệnh nhân được cắt thùy phổi + vét hạch, 1,6% bệnh nhân cắt phổi hình chêm và 1,6% bệnh nhân được PT cắt phân thùy. Tỷ lệ điều trị hóa chất bổ trợ là 96,9% trong đó chỉ có 71,9% bệnh nhân có tia xạ bổ trợ sau mổ. Đánh giá hạch trung thất trước phẫu thuật: 42,2% hạch N0, 32,8% hạch N1 và 25% hạch N2. Số lượng hạch trung bình vét được là 12,19 ±6,6, trong đó số lượng hạch di căn trung bình là 4,75±4,2. Trung vị DFS là 21,57 tháng, DFS tại các thời điểm 12 – 24 – 36 tháng lần lượt là 70,3% - 39% - 17,2%, Trung vị DFS ở nhóm chỉ có di căn 1 nhóm hạch là 35,5 tháng so với 20,3 tháng ở nhóm di căn nhiều hơn 1 nhóm hạch (p = 0,122). Nhóm bệnh nhân được điều trị tia xạ bổ trợ sau mổ đạt mDFS là 26,2 tháng cao hơn so với nhóm không được điều trị tia xạ là 8,5 tháng (p = 0,172). Kết luận: Di căn hạch trung thất N2 trong UTPKTBN là tổn thương rất khó đánh giá đúng trước phẫu thuật. Tỷ lệ chẩn đoán chính xác hạch N2 xác định sau phẫu thuật chỉ đạt 25%. Trung vị DFS đạt được 21,57 tháng, có sự khác nhau nhưng không có ý nghĩa giữa các phân nhóm: số nhóm hạch di căn sau phẫu thuật và lựa chọn có điều trị tia xạ bổ trợ hay không.
Lung cancer is a type of cancer with a poor prognosis, difficult treatment, high mortality rate, with only about 15% surviving for an additional 5 years. Among them, patients in stage III with N2 lymph node involvement may be eligible for surgery, but they represent a small proportion. However, this is a particularly challenging group of patients to determine clear treatment strategies for, requiring the decision of a committee involving surgeons, radiation oncologists, and medical oncologists. Evaluating the treatment outcomes of this patient group will provide essential data for selecting appropriate treatment modalities, especially for those who may undergo surgery. Therefore, we conducted this study with two objectives: to describe certain characteristics and evaluate the disease-free survival outcomes of stage III lung cancer patients (N2 lymph node involvement) who underwent surgery at K Hospital. Methods: 64 non-small cell lung cancer (NSCLC) patients in stage III with N2 lymph node involvement who underwent surgery at K Hospital from January 2018 to December 2021. Results: Among the 64 stage III NSCLC patients with N2 lymph node involvement who underwent surgery, 96.8% of patients underwent lung resection + lymph node dissection, 1.6% underwent wedge lung resection, and 1.6% underwent wedge resection of lymph nodes. The rate of adjuvant chemotherapy was 96.9%, with only 71.9% of patients receiving postoperative adjuvant chemotherapy. Preoperative lymph node assessment: 42.2% N0, 32.8% N1, and 25% N2 lymph nodes. The average number of dissected lymph nodes was 12.19 ± 6.6, with an average number of metastatic lymph nodes being 4.75 ± 4.2. Median disease-free survival (DFS) was 21.57 months, with DFS rates at 12 – 24 – 36 months being 70.3% - 39% - 17.2%, respectively. Median DFS in patients with single lymph node metastasis was 35.5 months compared to 20.3 months in patients with multiple lymph node metastases (p = 0.122). Patients receiving postoperative adjuvant radiotherapy had a median DFS of 26.2 months, higher than the 8.5 months in patients not receiving radiotherapy (p = 0.172). Conclusions: N2 lymph node metastasis in stage III NSCLC is a challenging entity to accurately assess preoperatively. The accuracy rate of postoperative N2 lymph node diagnosis is only 25%. The median disease-free survival (DFS) achieved is 21.57 months, there are differences in median DFS, but no significance among subgroups: number of lymph node metastases after surgery and whether adjuvant radiationtherapy is administered.
- Đăng nhập để gửi ý kiến