
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT kỹ thuật một bó và hai bó tại bệnh viện 198 BCA và bước đầu tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật tái tạo DCCT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không ngẫu nhiên, có nhóm chứng, tiến cứu trên 85 bệnh nhân tổn thương DCCT được phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT chia làm 2 nhóm: Nhóm tái tạo DCCT 1 bó và nhóm tái tạo DCCT 2 bó dựa trên tiêu chuẩn kích thước mảnh ghép gân cơ bán gân và gân cơ thon tự thân tại bệnh viện 198 BCA. Kết quả: 42 bệnh nhân đủ điều kiện về kích thước gân được tái tạo DCCT kỹ thuật 2 bó, 43 bệnh nhân chỉ đủ điều kiện về kích thước gân cho tái tạo DCCT kỹ thuật 1 bó. Không có sự khác biệt về các đặc điểm chung giữa 2 nhóm về tuổi, giới, mức độ hoạt động TDTT, đặc điểm tổn thương trước mổ. Thời gian theo dõi tối thiểu là 02 năm. Kết quả đánh giá theo thang điểm Lyshlom là không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Kết quả đánh giá phục hồi mức độ hoạt động thể dục thể thao ở nhóm 2 bó là tốt hơn nhóm 1 bó. Trong nhóm bệnh nhân tái tạo DCCT 1 bó, nhận thấy tỷ lệ đứt lại DCCT cao hơn ở nhóm có đường kính mảnh ghép ≤7mm. Kết luận: Kết quả phẫu thuật nội soi tái tạo DCCT kỹ thuật một bó và hai bó tại bệnh viện 198 BCA, thời gian theo dõi tối thiểu 2 năm, nhóm phẫu thuật tái tạo 2 bó DCCT cho kết quả phục hồi độ vững của khớp gối và kết quả đánh giá phục hồi mức độ hoạt động thể dục thể thao tốt hơn nhóm một bó, tỷ lệ đứt lại DCCT cao hơn ở nhóm tái tạo 1 bó sử dụng mảnh ghép có đường kính ≤7mm. Tuy nhiên, nghiên cứu cần thời gian theo dõi lâu hơn và cần có phương tiện đánh giá độ vững xoay của khớp gối để cho những kết luận chính xác hơn
The aim of this study was to prospectively compare the clinical results of single- and double-bundle ACL reconstruction. Subjects and methods: A Non-randomized controlled clinical trial, prospective, cross-sectional study of 85 patients with indication for ACL reconstruction. 42 patients with the diameter of the gracilis graft was greater than 5 mm, and semitendinosus graft greater than 6.5 mm indication for double-bundle (DB) reconstruction. 43 patients with the smaller tendon diameters were reconstructed using a single-bundle (SB) technique. Results: All the patients reached a minimum follow-up of 2 years. No differences between the 2 groups were observed in terms of Lysholm score. The rehabilitation of sports activity Cincinnati scores showed statistically significantly in the DB group than in the SB group. The incidence of a residual pivot-shift glide was better in DB than in SB. Revision was performed in 3 of 43 patients in the SB group with grafts 7 mm or less in diameter. Conclusion: In the 2-year minimum follow-up, DB ACL reconstructions showed better anterior knee laxity and pivot-shift glide. The rehabilitation of sports activity Cincinnati scores, DB ACL reconstructions showed better than SB. However, longer follow-up and accurate instrumented in vivo rotational stability assessment are needed.
- Đăng nhập để gửi ý kiến