Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Kết quả thông khí không xâm lấn sau rút nội khí quản ở trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh viện Nhi Đồng 1

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Kết quả thông khí không xâm lấn sau rút nội khí quản ở trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh viện Nhi Đồng 1
Tác giả
Hà Hiếu Nghĩa; Nguyễn Đức Toàn; Phạm Thị Thanh Tâm
Năm xuất bản
2024
Số tạp chí
3
Trang bắt đầu
45-49
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Xác định kết quả thông khí không xâm lấn sau rút nội khí quản ở trẻ sơ sinh non tháng tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang từ 2/2024 đến 7/2024 tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. Kết quả: Từ tháng 2/2024 đến tháng 7/2024, có 87 trường hợp trẻ được đưa vào nghiên cứu sau khi thỏa các tiêu chuẩn chọn vào và loại ra. Tuổi thai trung vị là 28,7 (27,0; 32.3) và cân nặng lúc sinh trung vị là 1300 g (1000; 1800)g. Trong 87 trẻ sau rút nội khí quản, nhóm thở NCPAP có 20 trường hợp, nhóm NIPPV là 60 trường hợp và nhóm NHFOV là 7 trường hợp. Tỷ lệ thất bại NIV sau rút nội khí quản trong 7 ngày đầu là 13,8%; trong đó nhóm NCPAP có tỷ lệ thất bại là 15% cao hơn nhóm NIPPV và NHFOV lần lượt là 13,3% và 14,3%. Biến chứng NIV chủ yếu là loét vách ngăn mũi khoảng 8% và không ghi nhận trường hợp nào tràn khí màng phổi, viêm ruột hoại tử hay thủng ruột. Kết luận: Tỷ lệ thất bại với các phương pháp thông khí không xâm lấn ở trẻ sơ sinh non tháng sau rút nội khí quản trong 7 ngày đầu là 13,8%. Trong đó, tỷ lệ thất bại với NCPAP cao hơn so với NIPPV và NHFOV. Biến chứng chính mà các phương pháp này gây ra chủ yếu là loét vách ngăn mũi, ngoài ra các biến chứng khác như tràn khí màng phổi, viêm ruột hoại tử và thủng ruột ít gặp hơn. Điều này cho thấy tính an toàn khi áp dụng điều trị sau rút khí quản cho trẻ sơ sinh non tháng.

Abstract

Currently, at Children's Hospital 1, there has not been any research to determine the profile of using NIV after tracheal extubation. Therefore, we conducted this study to describe the results of non-invasive ventilation after extubation in premature neonates at Children's Hospital 1. Methods: Cross-sectional study from February 2024 to July 2024 at Children's Hospital 1. Results: From February 2024 to July 2024, a total of 87 infants were included in the study after meeting the inclusion and exclusion criteria. The median gestational age was 28.7 weeks (27.0; 32.3), and the median birth weight was 1300g (1000; 1800 g). Among the 87 infants extubated, 20 were in the NCPAP group, 60 in the NIPPV group, and 7 in the NHFOV group. The failure rate of non-invasive ventilation (NIV) within the first 7 days after extubation was 13.8%, with the NCPAP group showing a failure rate of 15%, higher than that of the NIPPV and NHFOV groups, which had failure rates of 13.3% and 14.3%, respectively. The main complication of NIV was nasal septal ulceration, occurring in approximately 8% of cases, and no cases of pneumothorax, necrotizing enterocolitis, or bowel perforation were recorded. Conclusion: The failure rate of non-invasive ventilation methods in preterm neonates within the first 7 days after extubation is 13.8%. Among these, the failure rate with NCPAP is higher compared to NIPPV and NHFOV. The primary complication associated with these methods is nasal septal ulceration, while other complications such as pneumothorax, necrotizing enterocolitis, and bowel perforation are less common. This indicates the safety of applying these treatments following extubation in premature infants.