Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Khảo sát tình hình sử dụng thuốc nội tiết hỗ trợ sinh sản trong thụ tinh ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Khảo sát tình hình sử dụng thuốc nội tiết hỗ trợ sinh sản trong thụ tinh ống nghiệm tại Bệnh viện Từ Dũ
Tác giả
Nguyễn Như Hồ; Võ Trương Diễm Phương; Bùi Thị Hương Quỳnh
Năm xuất bản
2023
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
126-129
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Khảo sát đặc điểm về việc sử dụng thuốc nội tiết và đáp ứng điều trị trong thụ tinh ống nghiệm. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên hồ sơ bệnh án của bệnh nhân điều trị ngoại trú được chỉ định thụ tinh ống nghiệm tại Đơn vị hỗ trợ sinh sản khoa Hiếm muộn, bệnh viện Từ Dũ từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Nghiên cứu khảo sát đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu, đặc điểm sử dụng thuốc nội tiết, kết quả điều trị và các yếu tố liên quan đến số lượng noãn chọc hút và tỷ lệ mang thai lâm sàng. Kết quả: Kết quả khảo sát 127 hồ sơ bệnh án cho thấy bệnh nhân có tuổi trung vị là 31 (28-34). Hầu hết các trường hợp là hiếm muộn nguyên phát (70,9%) và 58,3% nguyên nhân hiếm muộn là do chồng. Chỉ số AMH ban đầu là 3,21 (2,38-4,75) ng/ml và AFC ban đầu là 15 (11-22) nang. Gonadotropin được chỉ định chủ yếu là rFSH + hMG (56,7%), rFSH + hMG (22%). Thời gian kích thích buồng trứng có trung vị 11 (10-11) ngày. Trong giai đoạn phóng noãn, rhCG và GnRH đồng vận sử dụng với tỷ lệ là 81,1%, 18,9%. Estradiol dạng uống (100%) và progesteron dạng đặt âm đạo (87,4%) được sử dụng nhiều nhất trong giai đoạn chuẩn bị nội mạc tử cung. Số lượng noãn chọc hút có trung vị là 14 (11-18). Tuổi (β = -0,296; p = 0,03), chỉ số AMH (β = 1,246; p < 0,001), chỉ số AFC (β = 0,441; p < 0,001), nồng độ estradiol ngày khởi động trưởng thành noãn (β = 0,001; p < 0,001) có liên quan tới số lượng noãn chọc hút. Tỷ lệ mang thai lâm sàng là 25,2%. Phôi loại 1 làm tăng tỷ lệ mang thai lâm sàng (OR = 5,07; p = 0,034). Kết luận: Cần tối ưu hóa chất lượng phôi bằng các biện pháp kỹ thuật và sử dụng thuốc nhằm tăng tỷ lệ thành công trong thụ tinh ống nghiệm.

Abstract

The aim of this study was to investigate the drug use pattern of hormonal drugs and the treatment outcomes of in vitro fertilization (IVF). Methods: A cross-sectional descriptive study was carried out on outpatients’ medical records with IVF at the Fertility Support Unit, Department of Infertility, Tu Du Hospital from October 2020 to March 2021. Baseline characteristics of patients, the use of hormonal drugs, the treatment results and the factors related to the response to infertility treatment (number of oocytes aspirated after ovarian stimulation and the clinical pregnancy rate) with the method of in vitro fertilization were investigated. Results: 127 medical records were included in this study. The median age of patients was 31 (28-34). Primary infertility was accounted for 70.9% and infertility caused by husband was 58,3%. Median AMH index was 3.21 (2.38-4.75) ng/ml and AFC index was 15 (11- 22) follicles. During the ovarian stimulation phase, the most commonly prescribed gonadotropins were rFSH + hMG (56.7%), rFSH + hMG (22%). The median duration of ovarian stimulation was 11 (10-11) days. In the ovulatory period, rhCG and GnRH agonists used were 81.1%, 18.9%, respectively. During endometrial preparation, oral estradiol accounted for 100% and vaginal progesterone accounted for 87.4%. The median number of oocytes aspirated was 14 (11-18). Age (β = - 0.296; p = 0.03), AMH index (β = 1.246; p < 0.001), AFC index (β = 0.441; p < 0.001) and estradiol concentration on the day of initiation of oocyte maturation (β = 0.001; p < 0.001) were associated with the number of aspirated oocytes. The clinical pregnancy rate was 25.2%. Type 1 embryo transfer (OR = 5.07; p = 0.034) was associated with higher clinical pregnancy rate. Conclusion: It is necessary to optimize the quality of embryos by technical measures and the use of drugs to increase the success rate of IVF.