Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật tắc ruột do bã thức ăn ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương, giai đoạn 2017 - 2021

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị phẫu thuật tắc ruột do bã thức ăn ở trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương, giai đoạn 2017 - 2021
Tác giả
Hán An Ninh; Phạm Duy Hiền
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
2
Trang bắt đầu
354-358
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật tắc ruột do bã thức ăn ở trẻ em tại bệnh viện Nhi Trung Ương, giai đoạn 2017 – 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu bao gồm tất cả các trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán sau mổ tắc ruột do bã thức ăn từ 01/2017 đến 12-2021 tại bệnh viện Nhi Trung Ương. Kết quả: 40 ca tắc ruột do bã thức ăn, bao gồm 17 nam và 23 nữ. Tuổi thường gặp 7-15 tuổi. Tỉ lệ nữ/nam là 1,3/1. Triệu chứng lâm sàng đau bụng (chiếm 92.5%), trong đó đau bụng cơn chiếm 75% , nôn (chiếm 95%) trong đó nôn dịch vàng chiếm 74%. Hình ảnh tắc ruột rõ trên XQ bụng không chuẩn bị là 85%, 15% còn hình ảnh hơi trong đại tràng. Trên siêu âm ổ bụng, hình ảnh mô tả tắc ruột chiếm 50%. Tính chất diễn biến bán cấp và không hoàn toàn thể hiện qua sự thay đổi diễn biến của các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng. 13/40 bệnh nhân được phẫu thuật nội soi, chưa xử trí tổn thương hoàn toàn bằng dụng cụ nội soi, mà hỗ trợ bởi đường rạch nhỏ trên rốn. Biểu hiện tắc ruột rõ trong lúc mổ là 100%. Vị trí bã thức ăn ở hồi tràng chiếm tỷ lệ cao nhất (77.5%). Xử lý tổn thương: Dồn bã thức ăn xuống đại tràng chiếm đa số trường hợp (85%), còn lại mở ở dạ dày (12.5%) và mở ruột non lấy bã thức ăn (2.5%). Kết quả điều trị giai đoạn sớm tốt: Thời gian trung tiện sau mổ trung bình 2.03±0.15 ngày, thời gian nằm viện sau mổ trung bình 4,72±0.28 ngày. Biến chứng sau mổ: 2 trường hợp nhiễm khuẩn vết mổ và 3 trường hợp viêm ruột. Các biến chứng nhẹ và không cần can thiệp ngoại khoa. Kết luận: Tắc ruột do bã thức ăn ở trẻ em là một bệnh lý tắc ruột cơ học do nguyên nhân trong lòng ruột, bệnh diễn biến bán cấp. Xử trí tổn thương chủ yếu bằng phương pháp dồn bã thức ăn xuống đại tràng. Kết quả điều trị sớm tương đối tốt. Phẫu thuật nội soi xử trí thương tổn vẫn còn là kỹ thuật cần được xem xét và hoàn thiện.

Abstract

Clinical characteristics, diagnose and treatment results surgery of intestinal obstruction caused by phytobezoar in children in National Pediatric Hospital period of 2017 – 2021. Subjects and methods: This is retrospective, descriptive study including all the cases of post-operative diagnosed with intestinal obstruction due to phytobezoar from January 2017 to June 2021 in National Pediatric Hospital. Results: 40 cases of bowel obstruction caused by phytobezoar, consisting of 17 males and 23 females. Patient’s age: 7 and 10; male/female percentage: 1.3/1; common clinical symptom was abdominal pain (92.5% of all cases), 75% cases was fluctuating pain; vomiting (95%), 74% cases was yellow fluid. The clear image of bowel obstruction on x- ray was 85%; on ultra sound was 50%. The essence of sub-acute development shows through extent variation of clinical symptoms and subclinical images. 13/40 treatment using laparoscopic tools was impossible; there was a small incision in the upper of umbilical performed instead. The obvious signs of bowel obstruction during an operation were 100%. Phytobezoar located in ileum was the most common case (77.5%). Treatment: push phytobezoar into colon in most of the cases (85%), the rest was opening the stomach (12.5%) and opening the small bowel (2.5%). 13 cases of laparoscopic operation, the treatment was without using laparoscopic tools, but with the help of a small incision in the upper of umbilicus. The result of treatment in early time is good. The duration of gas after surgery is 2.03±0.15 days; and staying in hospital after surgery is 4,72±0.28 days. Complications: 2 cases of infection on wounded and 3 cases of enterocolitis. They were not severe and did not need emergency operation. Conclusions: Obstruction caused by phytobezoar in children is a mechanical obstruction disorder-taking place from inside of the gastro-intestinal tract. Clinical symptoms and image diagnostics differ in the observation process, showing sub-acute essence of the disorder. Most common injury treatment was pushing phytobezoar into colon, which gave good results in early time. Laparoscopic operations still need to be examined and improved.