Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Mối liên quan của yếu tố nguy cơ đến giảm sức nghe của công nhân một số cơ sở sản xuất sơn, giầy tiếp xúc với dung môi hữu cơ trong môi trường lao động

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Mối liên quan của yếu tố nguy cơ đến giảm sức nghe của công nhân một số cơ sở sản xuất sơn, giầy tiếp xúc với dung môi hữu cơ trong môi trường lao động
Tác giả
Hà Lan Phương
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
Số Đặc biệt
Trang bắt đầu
31-39
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang nhằm đánh giá mối liên quan của một số yếu tố nguy cơ đến giảm sức nghe của công nhân sản xuất sơn, giầy tại Hà Nội, Hải Phòng. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy tiếp xúc với hỗn hợp dung môi hữu cơ (DMHC) vượt tiêu chuẩn cho phép, nồng độ a xít hippuric niệu cao hơn giới hạn tham chiếu và tiếp xúc với tiếng ồn trên 80dB có khả năng tăng nguy cơ giảm nghe 1,23 – 1,93 lần, tuy nhiên sự tăng này chưa có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Nguy cơ giảm sức nghe tăng dần theo tuổi đời từ 2,31 đến 38,6 lần; tăng dần theo nhóm tuổi nghề từ 1,49 – 6,06 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Công nhân không được học về an toàn sử dụng hóa chất, không biết hóa chất mình sử dụng trong làm việc, không biết khả năng gây bệnh nghề nghiệp của hóa chất mình sử dụng trong khi làm việc có tăng khả năng giảm sức nghe lần lượt là 1,85; 1,88 và 2,14 lần, tuy nhiên chỉ có yếu tố biết khả năng gây bệnh nghề nghiệp của DMHC là có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Việc hút thuốc khi làm việc, ăn uống tại nơi làm việc và không rửa tay chân trước khi ăn làm tăng khả năng giảm sức nghe lần lượt là 1,48; 1,08 và 1,21 lần, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Không sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân như quần áo bảo hộ, khẩu trang, găng tay cao su, ủng cao su đều có khả năng tăng giảm sức nghe với OR lần lượt là 1,48; 1,14; 1,01 và 1,07 tuy nhiên tất cả đều không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Kết luận: Việc đánh giá các yếu tố nguy cơ và tìm thấy mối liên quan của chúng với giảm sức nghe của công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ trong môi trường lao động là một vấn đề mới cần được quan tâm. Các nhà quản lý cần thiết phải thiết lập các quy định trong việc giám sát môi trường lao động và sức nghe của công nhân nhằm giảm thiểu và dự phòng bệnh giảm nghe nghề nghiệp cho người lao động tiếp xúc với dung môi hữu cơ.

Abstract

A cross-sectional epidemiological study aimed at assessing and analyzing the relationship of some risk factors to hearing loss of workers in Hanoi, Hai Phong. Results: Exposure to organic solvent mixture exceeding the allowable limit; hight concentration of hippuric acid in urine and exposure to noise the over 80dB increased the risk of hearing impairment by 1.23 to 1.93 times. However, there was not a statistically significant difference with p value > 0.05. The risk of hearing impairment increased with the age by 2.31 to 38.6 times, increased with the year of employment by 1.49 – 6.06 times, statistically significant difference with p value < 0.05. Group of workers who were not learning on safe use of chemical, did not know what kind of chemicals that they exposed to in the working environment, did not know the possibility of chemicals causing occupational diseases, had increased risk of hearing impairment by 1.85; 1.88 and 2.14 times, respectively. However, only the factor of knowledge on organic solvents causing occupational diseases was a statistically significant risk factor for hearing loss with p < 0.05. Smoking during working time, eating at workplaces and not washing hands before eating increased the likelihood of hearing loss in turn, by 1.48; 1.08 and 1.21 times, however, this difference was not statistical significance. The non-use of personal protective equipment such as protective clothing, face mask, rubber gloves, rubber boots are capable of increasing the hearing loss with odds ratio in turn 1.48; 1.14; 1.01 and 1.07, however, all were not statistically significant with p > 0.05. Conclusions: Assessing risk factors and finding their relevance to hearing loss of workers exposed to organic solvents in the working environment is a new issue that needs attention. Managers need to set up regulations to monitor the working environment and workers' hearing to minimize and prevent occupational hearing loss for workers exposed to organic solvents.