Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu áp dụng thang điểm 6s trong đánh giá độ trầm trọng ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tại bệnh viện đà nẵng

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu áp dụng thang điểm 6s trong đánh giá độ trầm trọng ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tại bệnh viện đà nẵng
Tác giả
Trần Quang Pháp, Hoàng Khánh
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
47
Trang bắt đầu
178-186
ISSN
1859-4727
Từ khóa nghiên cứu
Tóm tắt

Đánh giá bệnh nhân nhồi máu não bằng các thang điểm đột quỵ giúp đánh giá tiên lượng và điều trị sớm nhằm giảm tỷ lệ tử vong và tàn phế. Thang điểm 6S là thang điểm mới, có nhiều ưu điểm hơn các thang điểm khác, giúp đánh giá độ trầm trọng và tiên lượng sớm cho bệnh nhân nhồi máu não cấp từ đó điều trị sớm nhằm làm giảm tỷ lệ tử vong cũng như mức độ tàn phế. Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm của thang điểm 6S ở bệnh nhân nhồi máu não cấp. Khảo sát mức độ trầm trọng theo thang điểm 6S, đối chiếu với thang điểm Glasgow, NIHSS, tổn thương trên chụp CLVT ở bệnh nhân nhồi máu não cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi chọn 106 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định NMN giai đoạn cấp (tuần đầu) vào điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu và khoa Nội tổng hợp bệnh viện Đà Nẵng, từ tháng 7/2015 đến 7/2016. Đối tượng nghiên cứu được đánh giá bằng thang điểm 6S và được theo dõi trong thời gian nằm viện. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang và tiến cứu. Kết quả: Điểm 6S từ 0 - 5 điểm chiếm 69,8%, 6 - 10 điểm chiếm 16%, 11 - 15 điểm chiếm 14,2%, trung bình của 6S là 5,72 ± 3,27. Các triệu chứng chóng mặt, thất ngôn, nói ngọng, rối loạn cơ tròn và rối loạn nuốt có liên quan với mức độ nặng theo thang điểm 6S. Thang điểm 6S với các thang điểm Glasgow, NIHSS có sự khá tương đồng đến gần tương đồng hoàn toàn. Thang điểm 6S tương quan nghịch mức độ rất chặt chẽ với thang điểm Glasgow khi nhập viện, r = -0,830, p < 0,001 và tương quan thuận mức độ rất chặt chẽ với thang điểm NIHSS khi nhập viện, r = 0,907, p < 0,001. Với điểm cắt điểm 6S > 8, thang điểm 6S có giá trị trong tiên lượng tử vong của nhóm nghiên cứu trong thời gian nằm viện, độ nhạy: 75% (95%CI: 35,0- 96,1), độ đặc hiệu: 83,7% (95%CI: 74,8- 90,4), diện tích dưới đường cong ROC: 0,839. Tỷ lệ tử vong trong bệnh viện là 0,902 đối với Glasgow, 0,839 đối với 6S và 0,805 đối với NIHSS không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0.05). Kết luận: Ở bệnh nhân nhồi máu não cấp, thang điểm 6S có những tiêu chí đánh giá đơn giản hơn, dễ nhớ hơn và có giá trị tương đồng với các thang điểm Glasgow, NIHSS trong đánh giá độ trầm trọng và tiên lượng tử vong trong thời gian nằm viện

Abstract

The validity of practical methods in estimating acute stage of brain injury to predict the emergent treatment and the prognosis of a person following AIS helps to reduce disability and mortality rate. The 6S score that is new studied method to record the severity and subsequent level of patients with AIS, has more advantages. Objectives: The assessment of the components of the 6S score. The ability of the 6S score to predict outcome in AIS patients, strong relationships with Glasgow Coma Scale (GCS), NIHSS, neuroimaging in CT scanning in the acute evaluation of patients with apparent acute stroke. Methods: Records for 106 patients with diagnostic accuracy AIS evaluated using 6S score and observed in the ICU and Department of General Medicine at Da Nang Hospital from July, 2015 to July, 2016. Conducting based on cross-sectional descriptive study and prospective study. Results: -The statistic in levels of the 6S Score: 0-5 points: 69.8%; 6-10 points: 16%; 11-15 points: 14.2%; median value: 5.72 ± 3.27.-Symptoms such as dizziness, aphasia, dysarthria, smooth muscle malfunction, dysphagia are well correlated with levels of the 6S score. A good correlation and a nearly complete similarity exist between the 6S score and the GCS, the NIHSS. Similarly decreasing linear relationship between the 6S score and the GCS (r=-0.830, p8 points, the 6S score played a significant role in predicting mortality rate among recorded patients, sensitivity: 75% (95% CI: 35, 0-96.1), specificity: 83.7% (95% CI: 74.8- 90.4), under the curve of the ROC: 0.839. Inhospital mortality rate was 0.902 for the GCS, 0.839 for the 6S score and 0.805 for the NIHSS, respectively. The comparison showed no differences (p<0.05). Conclusion: The 6S Score is simple, memorable, correlated well with the GCS and the NHISS for assessing severity AIS and in-hospital mortality