Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu biến đổi các chỉ số sinh tồn trên sản phụ nhiễm Covid-19 có chỉ định mổ lấy thai vô cảm bằng tê tủy sống tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu biến đổi các chỉ số sinh tồn trên sản phụ nhiễm Covid-19 có chỉ định mổ lấy thai vô cảm bằng tê tủy sống tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang
Tác giả
Nguyễn Quang Chính; Nguyễn Toàn Thắng; Lê Nguyễn An; Đào Xuân Bách; Lê Huy Long
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
Số Chuyên đề
Trang bắt đầu
58-66
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Nghiên cứu nhằm khảo sát đặc điểm về lâm sàng trên sản phụ nhiễm COVID-19 có chỉ định mổ lấy thai được vô cảm bằng tê tủy sống và sự biến đổi của các chỉ số sinh tồn trong quá trình phẫu thuật trên nhóm bệnh nhân này tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang. Phương pháp: Chúng tôi đã phân tích hồi cứu lâm sàng, tự đối chứng của 72 sản phụ nhiễm virus SAR-COV-2 có chỉ định mổ lấy thai vô cảm bằng tê tủy sống tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang. Các sản phụ này đã được xem xét về đặc điểm chung, phân bố theo ASA (Phân loại tình trạng sức khỏe bệnh nhân theo Hội gây mê Mỹ), phân loại mức độ bệnh COVID-19 theo quyết định số 250 Bộ Y Tế. Bài nghiên cứu cũng đã phân tích, đánh giá sự thay đổi tuần hoàn, hô hấp của sản phụ tại các thời điểm quan trọng. Kết quả: Trong số 72 sản phụ nhiễm virus SARS-COV-2 có chỉ định mổ lấy thai vô cảm bằng tê tủy sống đã được phân tích, có 8 bệnh nhân không triệu chứng, 46 bệnh nhân có triệu chứng nhẹ, 14 bệnh nhân triệu chứng trung bình và chỉ có 4 bệnh nhân có triệu chứng nặng. Phần lớn đều trong nhóm ASA I và đã được tiêm Vaccin từ mũi 1 trở lên chiếm tỷ lệ lần lượt là 86,11% và 68,06%. Các chỉ số sinh tồn đều ổn định trong mổ, thời điểm biến thiên nhiều nhất từ thời điểm T1 đến T5 (phút thứ 1 cho đến phút thứ 5 sau tê tuỷ sống), với giá trị huyết áp tâm thu và huyết áp trung bình thấp nhất lần lượt là 97,61 ± 10,46 mmHg và 73,05 ±8,19 mmHg (tại thời điểm T1). Tổng lượng dịch truyền trong cả quá trình phẫu thuật trung bình là 1176,39 ± 275,396 ml. Tất cả các sản phụ đều cần đến thuốc co mạch ephedrin để nâng huyết áp với liều phổ biến từ 10mg đến 30mg chiếm 72,23%. Kết luận: COVID-19 gây tổn thương phổi tỷ lệ cao với sản phụ, chiếm 44,44% gặp chủ yếu trên sản phụ chưa tiêm vaccin. Những sản phụ được tiêm đủ mũi vaccine, lâm sàng ổn định hơn so với các sản phụ chưa tiêm vaccin và trong quá trình gây tê ít biến đổi huyết động hơn so với những sản phụ chưa tiêm mũi nào. 100% sản phụ trong nghiên cứu đều phải dùng thuốc co mạch Ephedrin khi tê tủy sống. Các sản phụ có chỉ định vô cảm tê tủy sống sau mổ đều ổn định và được xuất viện khi khỏi COVID-19.

Abstract

This study aims to investigate the clinical characteristics of pregnant women who are infected with COVID-19 and indicated for cesarean section with spinal anesthesia and the change of vital signs of these patients during surgical process at Duc Giang General Hospital. Method: We have retrospectively analyzed the clinical, self-control of 72 pregnant women infected with SAR-COV-2 virus, who are indicated for cesarean section with spinal anesthesia at Duc Giang General Hospital. These pregnant women were reviewed for general characteristics, fractions according to ASA (American Anesthesiology Society Classification of Patient Health Conditions), and classification of Covid-19 disease severity according to decision number 250 of the Ministry of Health. The study also analyzed, assessed changes in circulation, and respiration of pregnant women at important time points. Results: Among 72 infected pregnant women with SARS-COV-2 who are indicated for cesarean section with spinal anesthesia, there were 8 patients without symptoms, 46 patients with mild symptoms, 14 patients had moderate symptoms, and 4 patients with severe symptoms. Most of them are in the ASA group I and have been vaccinated 1st dose and more, accounting for 86.11% and 68.06%, respectively. The vital signs were stable intraoperatively, the most varied time from time T1 to T5 (minutes 1 to 5 minutes after spinal anesthesia), with values of systolic blood pressure and mean blood pressure. the lowest is 97.61± 10.46 mmHg and 73.05 ± 8.19 mmHg, respectively (at time T1). The total volume of fluid infusion during the entire surgery was on average 1176.39 ± 275,396 ml. All pregnant women needed ephedrine vasoconstrictor to raise blood pressure with the common dose from 10mg to 30mg accounting for 72.23%. Conclusion: COVID-19 causes lung damage at a high rate in pregnant women, accounting for 44.44%, mainly in unvaccinated pregnant women. Pregnant women who received all doses of the vaccine were clinically more stable than unvaccinated women and had fewer hemodynamic changes during anesthesia compared with women who had not received any vaccinations. 100% of the women in the study had to take the vasoconstrictor (ephedrine) during spinal anesthesia. Pregnant women with indications for spinal anesthesia were postoperatively stable and discharged from the hospital when they recovered from COVID-19.