
Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có so sánh trên 99 bệnh nhân được gây tê tủy sống để mổ lấy thai chia làm ba nhóm 35 bệnh nhân ở nhóm 1 (bupivacain 8 mg+ fentanyl 30 mcg); 33 bệnh nhân ở nhóm 2 (levobupivacain 8 mg + fentanyl 30 mcg); 31 bệnh nhân ở nhóm 3 (ropivacain 12 mg + fentanyl 30 mcg). Kết quả Tỷ lệ tụt huyết áp trên 20% ở phút thứ 3 sau gây tê tủy sống của nhóm bupivacain tương đương với nhóm levobupivacain nhưng cao hơn nhóm ropivacain (82,1%; 90,9% so với và 29%), nhóm ropivacain có tỷ lệ tụt huyết áp ở phút thứ 5 cao hơn so với nhóm bupivacain và levobupivacain (90,3% so với 48,6% và 66,7%). Lượng ephedrin sử dụng ở nhóm bupivacain cao hơn so với hai nhóm còn lại (14,1 ± 6,4 mg so với 10,3 ± 5,6 mg và 10,9 ± 4,2). Tỷ lệ nôn, buồn nôn của nhóm bupivacain cao hơn hai nhóm còn lại (14,3% so với 6,1% và 0%). Tuy nhiên, các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và chỉ số Apgar trẻ sơ sinh phút thứ nhất và phút thứ 5 không có sự khác biệt giữa ba nhóm nghiên cứu. Kết luận Gây tê tủy sống để mổ lấy thai có phối hợp fentanyl 30 mcg bằng bupivacain liều 8 mg có tỷ lệ tụt huyết áp ở phút thứ 3 sau gây tê tương đương với levobupivacain liều 8 mg nhưng cao hơn ropivacain liều 12 mg, trong khi tỷ lệ tụt huyết áp ở phút thứ 5 của nhóm ropivacain cao hơn hai nhóm còn lại. Tỷ lệ nôn, buồn nôn của nhóm bupivacain cao hơn hai nhóm còn lại (14,3% so với 6,1% và 0%). Tuy nhiên, các tác dụng không mong muốn khác trên mẹ và chỉ số Apgar trẻ sơ sinh không có sự khác biệt giữa ba nhóm nghiên cứu.
- Đăng nhập để gửi ý kiến