Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SA TẠNG CHẬU NỮ BẰNG PHẪU THUẬT ĐẶT MẢNH GHÉP ĐƯỜNG ÂM ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI AN GIANG NĂM 2020-2021

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ SA TẠNG CHẬU NỮ BẰNG PHẪU THUẬT ĐẶT MẢNH GHÉP ĐƯỜNG ÂM ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI AN GIANG NĂM 2020-2021
Tác giả
Trần Thụy Khánh Vân, Trần Khánh Nga; Trần Quang Hiền, Lưu Thị Thanh Đào
Năm xuất bản
2021
Số tạp chí
42
Trang bắt đầu
47-54
Tóm tắt

Sa tạng chậu nữ là bệnh lý gây ảnh hưởng lớn đến tâm lý, sinh hoạt và lao động của phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ và tiền mãn kinh,mãn kinh. Vấn đề điều trị sa tạng chậu nữ đặt ra cho các bác sĩ làm cách nào tốt nhất để bảo tồn các cấu trúc và các cơ quan vùng chậu, và làm cách nào để gia cố sự nâng đỡ cho các cơ quan vùng chậu thật hiệu quả. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp phẫu thuật đặt mảnh ghép đường âm đạo điều trị sa tạng chậu nữ tại Bệnh viện Sản Nhi An Giang năm 2020-2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích 47 sản phụ được chẩn đoán sa tạng chậu độ 3 trở lên, được phẫu thuật đặt mảnh ghép đường âm đạo tại Bệnh viện Sản Nhi An Giang. Kết quả: độ tuổi trung bình mắc bệnh sa tạng chậu là 48,2 đến 75,8 tuổi, sinh 3-4 lần chiếm tỉ lệ cao nhất 46,8%, triệu chứng thường gặp trong sa tạng chậu nữ là tiểu nhiều lần chiếm tỉ lệ 63,8%. Phương pháp vô cảm trong phẫu thuật tê tủy sống chiếm 91,5%. Thời gian phẫu thuật trung bình: 65,9-118,3 phút. Lượng máu mất trung bình khi phẫu thuật là 14,7-125,7ml. Không tổn thương trực tràng và bàng quang khi mổ. Thời gian nằm viện <7 ngày chiếm tỉ lệ 82%. Theo dõi sau phẫu thuật 1 tháng-3 tháng-6 tháng chưa phát hiện biến chứng sau mổ. Kết luận: Phương pháp đặt mảnh ghép đường âm đạo điều trị sa tạng chậu nữ đáp ứng mong muốn giải quyết được khối sa ở âm đạo âm hộ cho phụ nữ mà vẫn giữ lại được các cơ quan vùng chậu-nhất là tử cung. Trong 47 trường hợp nghiên cứu không có trường hợp nào bị biến chứng trong cuộc mổ và sau mổ. Tỉ lệ thành công của phẫu thuật đặt mảnh ghép đường âm đạo điều trị sa tạng chậu nữ theo đánh giá bước đầu là 100%. Tuy nhiên, cỡ mẫu còn ít và thời gian đánh giá còn ngắn, cần đánh giá thêm trên nhiều bệnh nhân và trong khoảng thời gian dài hơn nữa.

Abstract

Female pelvic organ prolapse (POP) is a gynecology condition that causes a significant ef ect distress on the psyche, the daily living andwork of young, pre-menopausal, or menopausal women. Therefore, it is a challenge to gynecologist to find the best solution to maintain structures and organs of pelvicachieve this goal, while also restoration restore of adequate pelvic support. Objectives: To evaluate the ef ectiveness of the synthetic mesh surgery by vaginal route to female POP at An Giang Obstetrics and Pediatrics Hospital in 2020-2021. Materials and methods: A cross-sectional descriptive study of 47 women diagnosed of grade 3 or higher POP, with or without symptoms. These patients underwentthe pelvic reconstructive surgery using the syntheticmesh by transvaginal approach atAnGiang Obstetrics and Pediatrics Hospital. Results: The average age that acquired POP was between 48.2 to 75.8 years old, case that birth 3-4 times wassignificantly highest 46.8%, the common symptom in female pelvic organ prolapse isfrequent urination accounting for 63.8%. Spinal anesthesia method accounted for a high percentage of 91.5%. The average time of operation was 65.9 - 118.3 minutes. The average amount of blood loss was 14.7-125.7ml. None of cases had bladder and rectum injury. Hospital-stay under 7 days is about 82%. Comprehensive follow-up aftersurgery 1 and 3 and 6 months did not detect any complications. Conclusion: The use of synthetic mesh in surgery for pelvic reconstruction of POP is an ideal and viable management of POP that also retain the majority of pelvic organs- especially the uterus. In 47 cases studied, there were no cases of complications during and after surgery. The rate of success post-operative ofsynthetic mesh in surgery for pelvic reconstruction through vagina was approximately 100%. However, the small sample size and short evaluation time required further evaluation in more patients and over longer periods of time