Website được thiết kế tối ưu cho thành viên chính thức. Hãy Đăng nhập hoặc Đăng ký để truy cập đầy đủ nội dung và chức năng. Nội dung bạn cần không thấy trên website, có thể do bạn chưa đăng nhập. Nếu là thành viên của website, bạn cũng có thể yêu cầu trong nhóm Zalo "NCKH Members" các nội dung bạn quan tâm.

Nghiên cứu vai trò của cộng hưởng từ ngực trong chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Hải Phòng, 2019 – 2020

nckh
Thông tin nghiên cứu
Loại tài liệu
Bài báo trên tạp chí khoa học (Journal Article)
Tiêu đề
Nghiên cứu vai trò của cộng hưởng từ ngực trong chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Hải Phòng, 2019 – 2020
Tác giả
Hoàng Đức Hạ; Nguyễn Duy Hoàng; Phạm Văn Linh
Năm xuất bản
2022
Số tạp chí
Đặc biệt
Trang bắt đầu
90-99
ISSN
1859-1868
Tóm tắt

Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh chụp cắt lớp vi tính (CLVT), cộng hưởng từ (CHT) ngực trong chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ tại bệnh viện Đa khoa Quốc Tế Hải Phòng và nhận xét giá trị của chụp cộng hưởng từ ngực so với chụp cắt lớp vi tính ngực ở các đối tượng nghiên cứu. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 43 bệnh nhân được chẩn đoán tại Bệnh viện Đa khoa quốc tế Hải Phòng, theo các tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2020. Mẫu nghiên cứu được lấy theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Phương tiện nghiên cứu gồm máy chụp CHT Avanto Siemens (Germany) 1.5 Tesla với quy trình đã được thống nhất và được tập huấn kỹ. Số liệu thu thập trong nghiên cứu được xử lý sử dụng các thuật toán thống kê y học. Kết quả và Kết luận: Trên nhóm nghiên cứu gồm 43 N UTPKT N, tỷ số nam giới/nữ giới là 2.1/1, tuổi trung bình của nhóm là 64,4 ± 12,6. Triệu chứng cơ năng thường gặp nhất ho khan (39,5%), ho khạc đờm trắng hoặc trong (27,9%), đau ngực (23,3%), gầy sút cân (23,3%). Triệu chứng thực thể thường gặp nhất gồm ran ẩm ran nổ ở phổi (23,3%), hội chứng 3 giảm (16,3%), ngón tay dùi trống (7%). CHT ngực đánh giá u trong vùng phổi xẹp, đánh giá u xâm lấn màng ngoài tim và phát hiện u di căn gan tốt hơn CLVT ngực. CHT và CLVT có sự tương đồng trong đánh giá kích thước khối u, sự di căn hạch và giai đoạn T, N, M của khối u. CHT có thể thay thế CLVT trong đánh giá khối UTPKTBN.

Abstract

To describe clinical features and chest computed tomography (CT) and chest magnetic resonance imaging (MRI) in the diagnosis of non-small cell lung cancer (NSCLC) at Hai Phong International General Hospital during 2019-2020 period, and evaluate the value of chest magnetic resonance imaging compared with computed tomography of the chest in these subjects. Subjects and methods: Prospective descriptive study carried out on 43 patients diagnosed NSCLC at Hai Phong International General Hospital, enrolled by non-probability sampling, in accordance with the study criteria. Research facilities included Avanto Siemens CT scanner (Germany) 1.5 Tesla, standard operating procedure and well trained professionals. The data collected in the study were processed according to medical statistical methods. Results and Conclusions: On 43 studied patients, the ratio of men/women was 2.1/1, the mean age of the group was 64.4 ± 12.6. The most common functional symptoms were dry cough (39.5%), cough with white or transparent sputum (27.9%), chest pain (23.3%), weight loss (23.3%). The most common physical symptoms wer: moist crackles in the lungs (23.3%), triple reduction syndrome (16.3%), clubbing fingers (7%). Chest MRI evaluated tumors in the collapsed lung area, evaluated pericardial invasion and detected liver metastases better than chest CT. Otherwise, CT and MRI had similarities in assessing tumor size, lymph node metastasis and T, N, and M staging of NSCLC. MRI can replace CT in the evaluation of non-small cell lung cancer.