Nhận xét một số nguyên nhân gây phù thai và phù thai rau tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2022 – 2023. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 139 thai phụ được chẩn đoán phù thai hoặc phù thai rau tại Trung tâm Chẩn đoán trước sinh – Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 01/2022 đến tháng 12/2023. Kết quả: Tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 28; tỷ lệ có tiền sử sinh con bị phù thai – rau là 10,1%; tuổi thai trung bình chẩn đoán bệnh là 24 tuần; tỷ lệ thai phụ được chẩn đoán bệnh trước 20 tuần là 23,7%, từ 20 tuần trở lên là 76,3%; tìm được nguyên nhân trong 85,6% số trường hợp trong đó 26,9% trường hợp xác định bằng siêu âm và 73,1% trường hợp xác định bằng xét nghiệm. Trong đó, nhóm nguyên nhân miễn dịch (bất đồng nhóm máu mẹ - con) chiếm 0,7%; các nhóm nguyên nhân không miễn dịch như rối loạn huyết học (α-thalassemia) 59,7%, bất thường lồng ngực 7,9%, bất thường hệ bạch huyết (Hygroma Kystique) 7,2%, tim mạch 5,1%, nhiễm sắc thể 2,2%, tiêu hóa 1,4%, tiết niệu 0,7%, thần kinh – cơ xương 0,7%; không xác định được nguyên nhân trong 14,4% các trường hợp. Kết luận: Phần lớn phù thai – rau phát hiện được sau 20 tuần, phần lớn xác định được nguyên nhân nhờ siêu âm hình thái thai kỳ kết hợp với xét nghiệm máu, chọc ối làm nhiễm sắc đồ. Chủ yếu nguyên nhân thuộc nhóm không miễn dịch như α-thalassemia, bất thường lồng ngực và Hygroma Kystique.
To analyze the causes of hydrops fetalis at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology (NHOG) from 2022 to 2023. Subjects and methods: This descriptive study involved 139 cases diagnosed with hydrops fetalis at the NHOG from January 2022 to December 2023. Results: The average age of the study group was 28 years. The prevalence of a history of previous pregnancies affected by Hydrops Fetalis was 10.1%. The mean gestational age at diagnosis was 24 weeks, with 23.7% of cases diagnosed before 20 weeks and 76.3% diagnosed at or after 20 weeks. The etiology was identified in 85.6% of cases, with 26.9% determined by ultrasound and 73.1% through laboratory tests. Among identified causes, immune-hydrop fetalis accounted for 0.7%; nonimmune-hydrop fetalis (NIHF) included hematologic disorders (alpha-thalassemia) at 59.7%, thoracic congenital anomalies at 7.9%, lymphatic abnormalities (cystic hygroma) at 7.2%, cardiovascular disorders at 5.1%, chromosomal abnormalities/syndromes at 2.2%, gastrointestinal disorders at 1.4%, urinary/renal disorders at 0.7%, and neurologic/musculoskeletal disorders at 0.7%. The cause remained undetermined in 14.4% of cases. Conclusion: Most Hydrops Fetalis cases were detected after 20 weeks of gestation. Most diagnoses were made through a combination of morphological ultrasound and laboratory tests, including amniocentesis for chromosomal analysis. The predominant causes were NIHF such as α-thalassemia, thoracic abnormalities, and cystic hygroma.
- Đăng nhập để gửi ý kiến